Tải FREE Bài Thu Hoạch Môn Học Công Pháp Quốc Tế, 9 Điểm

5/5 - (3 bình chọn)

  Tải Miễn Phí !! Tải FREE!!! Bài Thu Hoạch Môn Học Công Pháp Quốc Tế dưới đây vì đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu dụng cho các bạn trước khi tiến hành làm bài tiểu luận về Môn Học Công Pháp Quốc Tế. Bài viết được Luận Văn Tốt soạn thảo từ các nguồn tư liệu uy tín và những bài tiểu luận Môn Học Công Pháp Quốc Tế đạt điểm rất cao của các bạn sinh viên ưu tú ở những khóa trước, mong rằng đây sẽ là tài liệu hữu ích cho các bạn, giúp các bạn định hướng được quá trình triển khai bài làm của các bạn.

Trong quá trình làm bài các bạn có khó khăn hay cần thêm tài liệu tham khảo hãy liên hệ ngay với dịch vụ viết thuê tiểu luận của Luận Văn Tốt qua Zalo/tele : 0934573149 để được hỗ trợ và cung cấp tài liệu mẫu miễn phí bạn nhé!!!!

1. Tổng quan về môn học Công pháp quốc tế

            1.1. Lý luận chung về luật quốc tế

            Khái niệm luật quốc tế: luật quốc tế là hệ thống các nguyên tắc và quy phạm pháp luật, do các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế thỏa thuận xây dựng nên rên cơ sở tự nguyện và bình đẳng, nhằm điều chỉnh những quan hệ phát sinh giữa các quốc gia và các chủ thể đó trong đời sống quốc tế.

            Đặc trưng của luật quốc tế:

            Về chủ thể: quốc gia là chủ thể căn bản nhất của Luật quốc tế

            Quan hệ pháp luật quốc tế: là những quan hệ nảy sinh trong xã hội được các quy phạm pháp luật điều chỉnh. Các quan hệ này được thiết lập giữa các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi quốc gia.

            Quan hệ pháp luật quốc tế được xây dựng và tồn tại trên cơ sở bình đẳng vê chủ quyền giữa các quốc gia, cũng như tồn tại của hệ thống pháp luật quốc tế lấy quốc gia là trung tâm.

            Thực thi luật quốc tế là quá trình các chủ thể áp dụng cơ chế hợp pháp, phù hợp để đảm bảo các quy định của luật quốc tế được thi hành và được tôn trọng đầy đủ trong đời sống quốc tế.

            Lịch sử phát triển của luật quốc tế được chia thành các thời kỳ như sau: Luật quốc tế cổ đại (tương đương với thời kỳ chiếm hữu nô lệ); Luật quốc tế trung đại (tương đương với thời kỳ phong kiến); Luật quốc tế cận đại (tương đương với thời kỳ chủ nghĩa tư bản); Luật quốc tế hiện đại (tương đương với thời kỳ từ sau Cách mạng tháng mười Nga năm 1917).

            Mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia: có thể thấy rằng Hệ thống cấu trúc bên ngoài của luật quốc tế chính là sự tương thích với đặc thù quá trình hình thành và phương thức viện dẫn, áp dụng các loại nguồn của chủ thể luật quốc tế. Vì thế hệ thống cấu trúc của luật quốc tế dưới góc độ này có thể chia thành các nguồn chứa đựng quy phạm luật quốc tế và các phương tiện bổ trợ cho nguồn.

            Mối quan hệ biện chứng giữa luật quốc tế và luật quốc gia: Luật quốc gia ảnh hưởng quyết định đến sự hình thành và phát triển của luật quốc tế và luật quốc tế tác động tích cực đến sự phát triển và hoàn thiện của luật quốc gia.

            Những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế bao gồm: nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia, Nguyên tắc cấm đe dọa dùng vũ lực hay dùng vũ lực, Nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế, Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác, Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác, nguyên tắc dân tộc tự quyết, nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện cam kết quốc tế (Pacta sunt servanda)

            1.2. Nguồn của luật quốc tế

            Về mặt pháp lý, nguồn của luật quốc tế là hình thức chứa đựng các quy phạm luật quốc tế. Theo cách xác định truyền thống thì nguồn của luật quốc tế bao gồm điều ước quốc tế và tập quán quốc tế.

            Về mặt lý luận, nguồn của luật quốc tế là phạm trù pháp lý gắn với quá trình hình thành các quy phạm pháp luật quốc tế

            Nguồn của luật quốc tế bao gồm: điều ước quốc tế và tập quán quốc tê

            Điều ước quốc tế là thỏa thuận quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế và được luật quốc tế điều chỉnh. Các quy phạm pháp luật được ghi nhận trong điều ước quốc tế là minh chứng cho kết quả của quá trình vừa đấu tranh, vừa hợp tác giữa các chủ thể của luật quốc tế. Điều ước quốc tế có nhiều loại và được ký kết trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Có điều ước quốc tế phổ cập hoặc không phổ cập, toàn cầu hoặc khu vực, đa phương hoặc song phương.

            Tập quán quốc tế: Tập quán quốc tế là hình thức pháp lý chứa đựng các quy tắc xử sự chung, hình thành trong thực tiễn quan hệ quốc tế và được các chủ thể luật quốc tế thừa nhận là luật. Sự hình thành tập quán quốc tế dựa trên hai yếu tố: vật chất và tinh thần.

            Các phương tiện bổ trợ cho nguồn: các nguyên tắc pháp lý chung, phán quyết của Tòa án công lý quốc tế Liên hợp quốc, các học thuyết về luật quốc tế, nghị quyết của tổ  chức quốc tế liên chính phủ, Hành vi pháp lý đơn phương của quốc gia.

            1.3. Chủ thể của luật quốc tế

            Khái niệm: chủ thể luật quốc tế là thực thể độc lập tham gia vào những quan hệ do luật quốc tế điều chỉnh, có đầy đủ quyền và nghĩa vụ, có khả năng gánh vác trách nhiệm pháp lý quốc tế từ những hành vi mà chính chủ thể đó thực hiện.

            Các loại chủ thể của luật quốc tế bao gồm: quốc gia được xác định là chủ thể cơ

bản và phổ biến của luật quốc tế, các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập là chủ thể đặc biệt và tổ chức quốc tế liên chính phủ là chủ thể phái sinh của luật quốc tế.

            Quốc gia – chủ thể cơ bản của luật quốc tế: Trong hệ thống pháp luật quốc tế, quốc gia là chủ thể cơ bản và chủ yếu, có vai trò và vị trí đặc biệt quan trọng.

            1.4. Lãnh thổ và biên giới quốc gia

            Lãnh thổ quốc gia là một phần của Trái Đất, bao gồm vùng đất, vùng nước, vùng trời và vùng lòng đất, thuộc chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối hoặc đầy đủ của một quốc gia. Lãnh thổ quốc gia là toàn vẹn và bất khả xâm phạm.

            Biên giới quốc gia là ranh giới phân định lãnh thổ của quốc gia này với lãnh thổ của quốc gia khác hoặc với các vùng mà quốc gia không có quyền chủ quyền. Ranh giới này hoặc là đường ranh giới được ghi nhận trên bản đồ và được đánh dấu trên thực địa hoặc là mặt thẳng đứng đi qua đường ranh giới nói trên xác định giới hạn bên ngoài của lãnh thổ quốc gia.

            1.5. Luật biển quốc tế

            Luật biển quốc tế là tổng thể các nguyên tắc và quy phạm pháp lý, được các chủ thể luật quốc tế tham gia thiết lập trên cơ sở thỏa thuận hoặc thông qua thực tiễn có tính tập quán, nhằm điều chỉnh các quan hệ nảy sinh giữa các chủ thể trong quá trình khai thác, sử dụng và quản lý biển.

            Các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia:

                Nội thủy là vùng nước ở phía bên trong đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Trong quy định về nội thủy cần chú ý:

            Thứ nhất, các quốc gia quần đảo có quyền vạch ra các đường cơ sở thẳng của quần đảo bằng cách nối liền các điểm ngoài cùng của các đảo xa nhất và các bãi đá lúc chìm lúc nổi của quần đảo. Vùng nước trong đường cơ sở thẳng này là vùng nước quần đảo và có chế độ pháp lý đi qua không gây hại.

            Thứ hai, khoản 2 điều 8 Công ước Luật Biển 1982 quy định, khi một đường cơ sở thẳng được vạch ra theo đúng phương pháp quy định tại Công ước gộp vào nội thủy các vùng nước trước đó chưa được coi là nội thủy thì quyền đi qua không gây hại vẫn được áp dụng ở các vùng nước đó. Đây là quy định nhằm đảm bảo cho quyền tự do biển cả của tàu thuyền, nhất là đối với những vùng nước có đường hàng hải quốc tế đi qua mà trước đó chúng không thuộc nội thủy,

            Thứ ba, vùng nước lịch sử là các vùng nước tuy không phải là nội thủy nhưng do tính chất lịch sử của mình mà chúng được hưởng quy chế nội thủy. Tuy vịnh và vùng nước là các khái niệm khác nhau về mặt địa lý, bề rộng, nhưng do các vùng nước được yêu sách là lịch sử chủ yếu là các vịnh nên lý thuyết về vùng nước lịch sử và vịnh lịch sử là trong luật quốc tế không có gì khác nhau.

            Lãnh hải là vùng biển nằm giữa vùng nước nội thủy và các vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia.

            Phương pháp xác định đường cơ sở gồm 2 phương pháp: phương pháp đường cơ sở thông thường và phương pháp đường cơ sở thẳng.

            Các vùng biển quốc gia có chủ quyền và quyền tài phán

            – Vùng tiếp giáp lãnh hải: Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển nằm ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải. Chiều rộng vùng tiếp giáp lãnh hải không quá 24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.

            – Vùng đặc quyền kinh tế: là vùng biển nằm ở phía ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải, đặt dưới chế độ pháp lý riêng, trong đó các quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển, các quyền của các quốc gia khác đều do các quy định thích hợp của Công ước điều chỉnh.

            – Thềm lục địa: thềm lục địa pháp lý được xây dựng trên cơ sở của thềm lục địa địa chất. Vì thế, trước khi nêu ra định nghĩa về thềm lục địa pháp lý thì chúng ta nghiên cứu về thềm lục địa địa chất trước.

            Các vùng biển không thuộc về quyền tài phán quốc gia:

            – Biển cả: là những vùng biển không nằm trong vùng đặc quyền kinh tế, lãnh hải hay nội thủy của một quốc gia cũng như không nằm trong vùng nước quần đảo của một quốc gia quần đảo.

            – Vùng là đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài giới hạn quyền tài phán quốc gia

            1.6. Dân cư trong Luật quốc tế

            Trong luật quốc tế hiện đại, dân cư được hiểu là tổng hợp những người dân trên

lãnh thổ của một quốc gia nhất định và phải tuân theo pháp luật của quốc gia đó. Dân cư của một quốc gia bao gồm các bộ phận: công dân là người mang quốc tịch của chính quốc gia đó, người mang quốc tịch nước ngoài là công dân nước ngoài, người có từ hai quốc tịch trở lên, người không có quốc tịch.

            – Quốc tịch: là mối liên hệ mang tính chất pháp lý – chính trị giữa một cá nhân với một quốc gia nhất định và biểu hiện ở tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý được pháp luật quy định và bảo đảm thực hiện.

            Đặc điểm của quốc tịch: có tính ổn định và bền vững; Quốc tịch là cơ sở để xác định các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; quốc tịch mang tính cá nhân, quốc tịch có ý nghĩa pháp lý quốc tế;

            1.7. Luật ngoại giao và lãnh sự

            Luật ngoại giao và lãnh sự là tổng thể các nguyên tắc và quy phạm pháp luật quốc tế nhằm điều chỉnh trình tự thiết lập quan hệ chính thức giữa các quốc gia và chủ thể khác của luật quốc tế với nhau, trên cơ sở đó duy trì hoạt động chức năng của các cơ quan quan hệ đối ngoại của nhà nước để phục vụ sự phát triển quan hệ hợp tác quốc tế của các nhà nước hoặc các tổ chức quốc tế liên chính phủ.

            Nguồn của luật ngoại giao và luật lãnh sự bao gồm của nguồn luật quốc tế và nguồn của luật quốc gia.

            Các nguyên tắc ngoại giao và lãnh sự: Nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử; Nguyên tắc thỏa thuận; Nguyên tắc tôn trọng quyền ưu đãi và miễn trừ của cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự và thành viên của các cơ quan này; Nguyên tắc tôn trọng pháp luật và phong tục tập quán của nước tiếp nhận trong các hoạt động ngoại giao và lãnh sự; nguyên tắc có đi có lại, cơ quan đối ngoại nước ngoài.

Bài Thu Hoạch Môn Học Công Pháp Quốc Tế
Bài Thu Hoạch Môn Học Công Pháp Quốc Tế.

XEM THÊM : Tiểu Luận Môn Học Pháp Luật Cộng Đồng Asean

            Cơ quan đại diện ngoại giao

            Cơ quan đại diện ngoại giao là cơ quan nhà nước của một quốc gia này, có trụ sở trên lãnh thổ của quốc gia khác để thực hiện quan hệ ngoại giao với quốc gia đó gồm: đại sứ quán và công sứ quán.

            Cơ quan lãnh sự: Quan hệ lãnh sự là những quan hệ mang tính hành chính – pháp lý quốc tế, được thiết lập trong hoạt động đối ngoại nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân của một quốc gia trên lãnh thổ quốc gia khác.

            Quan hệ lãnh sự được thiết lập theo sự thỏa thuận giữa các bên. Khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao thì mặc nhiên đã thỏa thuận thiết lập quan hệ lãnh sự, trừ trường hợp có nói rõ không làm như thế.

            1.8. Luật về các tổ chức quốc tế liên chính phủ

            Tổ chức quốc tế liên chính phủ là các thực thể liên kết các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế . Được hình thành trên cơ sở điều ước quốc tế có quyền năng chủ thể luật quốc tế, có hệ thống các cơ quan duy trì hoạt động thường xuyên theo đúng mục đích tôn chỉ của tổ chức quốc tế đó.

            Đặc điểm của tổ chức quốc tế liên chính phủ: Tổ chức quốc tế là thực thể liên kết các quốc gia; hình thành trên cơ sở điều ước quốc tế; có quyền năng chủ thể riêng biệt với quyền năng chủ thể của quốc gia, Có một hệ thống bộ máy  tổ chức chặt chẽ để  duy trì hoạt động.

            1.9. Luật quốc tế về quyền con người

            Quyền con người (tiếng Anh: Human rights) là những quyền tự nhiên của con người và không bị tước bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ chính thể nào. Theo định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hiệp quốc, quyền con người là những đảm bảo pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm những tự do cơ bản của con người[1].

            Hiện nay, có nhiều quan điểm và cách hiểu khác nhau về luật nhân quyền quốc tế, tuy nhiên, từ góc độ pháp lý, có thể hiểu đây là một hệ thống các quy tắc, tiêu chuẩn và tập quán pháp lý quốc tế được xác lập, bảo vệ và thúc đẩy các quyền tự do cơ bản cho mọi thành viên của cộng đồng nhân loại[2].

            Về mặt hình thức, luật nhân quyền quốc tế chủ yếu được thể hiện trong hàng trăm văn kiện pháp lý quốc tế về vấn đề này, kể cả những văn kiện mang tính ràng buộc (các công ước, nghị định thư) và các văn kiện không mang tính ràng buộc (các tuyên bố, tuyên ngôn, khuyến nghị, hướng dẫn…) trong đó, bao gồm các văn kiện có hiệu lực toàn cầu và khu vực.

            Luật nhân quyền quốc tế là một ngành luật nằm trong hệ thống luật quốc tế chung (hay còn gọi là công pháp quốc tế) cùng với các ngành luật quốc tế khác như luật nhân đạo quốc tế, luật hình sự quốc tế, luật biển quốc tế, luật hàng không quốc tế, luật ngoại giao và lãnh sự, luật tổ chức quốc tế.

            1.10. Luật hình sự quốc tế

            Luật hình sự quốc tế có thể được hiểu “là tổng thể các nguyên tắc, các quy phạm pháp lý quốc tế để điều chỉnh các vấn đề pháp lý trong hoạt động hợp tác đấu tranh phòng, chống tội phạm của cộng đồng quốc tế[3] hay tương tự được hiểu là “tổng hợp các nguyên tắc và quy phạm điều chỉnh sự hợp tác giữa các quốc gia trong việc đấu tranh chống tội phạm. Luật hình sự quốc tế là một ngành mới trong hệ thống pháp luật quốc tế. Tội ác quốc tế thường cụ thể gây ra nên việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những kẻ phạm tội nghiêm trọng là việc làm rất cần thiết để bảo đảm hòa bình và an ninh thế giới[4]”.

            Dưới góc độ khái quát nhất, Luật hình sự quốc tế là một ngành luật trong hệ thống pháp luật quốc tế ghi nhận những hành vi đặc biệt nguy hiểm cho các lợi ích chung của cộng đồng quốc tế là các tội phạm quốc tế (và tội phạm có tính chất quốc tế – tội phạm xuyên quốc gia), đồng thời quy định hệ thống hình phạt và các chế định pháp lý có thể được áp dụng đối với những chủ thể vi phạm, cũng như tổng hợp những nguyên tắc xác định quyền và nghĩa vụ của các thành viên cộng đồng quốc tế, nghĩa vụ hợp tác của các quốc gia trong việc xử lý và phòng, chống các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng đã nêu.[5]

            Tội phạm theo quy định của luật hình sự quốc tế được hiểu là các hành vi phạm tội có mức độ nguy hiểm cho nhân loại, cho xã hội thấp hơn so với tội phạm quốc tế, song chúng cũng xâm hại đến trật tự pháp luật quốc tế và các quyền lợi của cộng đồng quốc tế và lợi ích của các quốc gia[6].

            1.11. Luật môi trường quốc tế

            “Luật môi trường quốc tế là một bộ phận cấu thành của luật quốc tế hiện nay, hơn nữa nó đang trở thành một bộ phận đặc biệt quan trọng. Vì môi trường toàn cầu là một thể thống nhất nên một quốc gia nào đó nhằm lợi dụng khai thác môi trường hoặc bảo vệ, cải thiện môi trường nhất định sẽ ảnh hưởng đến môi trường của quốc gia khác, thậm chí gây ảnh hưởng đến môi trường toàn cầu.

Trong những bài tiểu luận về pháp luật Luận Văn Tốt cũng chi sẽ đến nhiều bạn sinh viên Cách Làm Tiểu Luận Tốt Nghiệp Đại Học Tây Đô Điểm Cao để các bạn có thêm kinh nghiệm làm bài tốt hơn.

            Luật môi trường quốc tế bao gồm những Điều ước có tính song phương, đa phương hoặc tính toàn cầu, như “Tuyên ngôn môi trường nhân loại”, “Tuyên ngôn môi trường Nairôbi”, “Tuyên ngôn môi trường và phát triển Rio de Janeiro” nổi tiếng v.v….

            1.12. Luật kinh tế quốc tế

            Luật kinh tế quốc tế là tổng thể các nguyên tắc, quy phạm điều chỉnh quan hệ kinh tế giữa các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế.

            Là ngành luật mới phát triển mạnh trong thế kỷ XX, các quy phạm pháp luật kinh tế quốc tế được ghi nhận chủ yểu trong các điều ước quốc tế song phương, đa phương trong đó phải kể đến các hiệp ước về hữu nghị và hợp tác, hiệp ước thương mại-hàng hải, hiệp định thương mại, hiệp định thanh toán, hiệp định tín dụng, đầu tư, hợp tác khoa học công nghệ, thuế quan, lao động …

            Các nguyên tắc của luật quốc tế bao gồm: nguyên tắc không phân biệt đối xử, nguyên tắc tối huệ quốc, nguyên tắc đối xử quốc gia, nguyên tắc đối xử ưu đãi.

            1.13. Giải quyết tranh chấp trong luật quốc tế

            Tranh chấp quốc tế là hoàn cảnh thực tế mà trong đó các chủ thể của luật quốc tế có những quan điểm mâu thuẫn trái ngược nhau và gắn với đó là các yêu sách hay đòi hỏi cụ thể trái ngược nhau.

            Chủ thể: là chủ thể của luật quốc tế. Những tranh chấp giữa 1 bên là chủ thể luật quốc tế với bên kia không phải là chủ thể luật quốc tế không được coi là tranh chấp quốc tế.

            Đối tượng: đa dạng, phát sinh trong mọi lĩnh vực của đời sống quốc tế.

            Tính chất: không có sự mâu thuẫn trong uan điểm mà còn gắn đó là các yêu sách hay những đòi hỏi cụ thể trái ngược nhau.

            Phân biệt với: “tình thế quốc tế” mới chỉ dừng ở mức độ: các bên có quan điểm trái ngược nhau. Ví dụ: vấn đề hạt nhân ở Iran. Mỹ cho rằng Iran làm giàu Uranium để sản xuất hạt nhân, nhưng Iran bác bỏ và nói răng làm giàu uranium để sản xuất điện năng.

            Cơ chế giải quyết tranh chấp: Áp dụng các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế. Các bên tranh chấp được hoàn toàn tự do thỏa thuận để lựa chọn một biện pháp giải quyết tranh chấp, tuy nhiên những biện pháp đó phải dựa trên các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế như nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế, nguyên tắc không dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế.

            1.14. Trách nhiệm pháp lý quốc tế

            Trách nhiệm pháp lý là sự cưỡng chế trong luật quốc tế để buộc chủ thể đã thực hiện hành vi trái pháp luật quốc tế, hoặc tuy thực hiện các hành vi mà luật quốc tế không cấm nhưng gây thiệt hại cho chủ thể khác, phải loại bỏ thiệt hại đã gây ra, phải thực hiện một hoặc một số yêu cầu của chủ thể bị thiệt hại, kể cả việc phải gánh chịu những biện pháp trừng phạt do chủ thể bị thiệt hại hoặc các chủ thể khác áp dụng, trên cơ sở pháp luật quốc tế.

            Chủ thể của quan hệ pháp lý quốc tế được chia thành: chủ thể chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế và chủ thể chịu truy cứu trách nhiệm pháp lý quốc tế. Các chủ thể này chính là chủ thể của luật quốc tế, tức là bao gồm quốc gia, tổ chức quốc tế liên chính phủ và các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập.

            Hiện nay, trách nhiệm pháp lý quốc tế được xác định thông qua các điều ước quốc tế quan trọng. Có thể kể đến là Hiến chương Liên hợp quốc, Công ước 1973 về tội phân biệt chủng tộc và trừng trị tội đó, Công ước 1948 về tội diệt chủng,…

2. Ví dụ liên quan đến thực tiễn môn học

            2.1. Bình luận thỏa thuận đánh bắt cá giữa Nhật Bản và Đài Loan dưới góc nhìn của Luật biển quốc tế

            Ngày 10/4/2013 tại Đài Bắc, các lãnh đạo Nhật Bản và Đài Loan đã thông qua một thỏa thuận mang tính lịch sử, liên quan đến khu vực đánh cá chung. Từ nay, các tàu cá Đài Loan được phép hoạt động trong những vùng biển có nguồn hải sản phong phú ở vùng quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, nơi giao thoa, chồng chéo giữa hai vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý mà Nhật Bản, Trung Quốc và Đài Loan đều tuyên bố có chủ quyền. Tức là khoảng 4.530 km2 mặt nước xung quanh quần đảo. Khu vực này chiếm đến 97% số lượng các vụ tranh chấp về đánh cá giữa Đài Loan và Nhật Bản trong những năm qua, trong đó nhiều lần tàu cá Đài Loan bị tuần duyên Nhật Bản bắt giữ. Tên gọi của hiệp định nghề cá Nhật Bản – Đài Loạn là “Hiệp định về việc thiết lập trật tự mới trong ngành đánh bắt cá giữa Hiệp hội trao đổi, Nhật Bản và Hiệp hội quan hệ Đông Á”[7].

            Theo thỏa thuận đánh bắt cá này, ngư dân Đài Loan chỉ có thể đánh bắt cá trong vùng biển gần quần đảo Senkaku/Điếu Ngư. Đây là vùng biển mà Đài Loan yêu cầu được đánh bắt. Ngoài ra, tàu đánh cá Đài Loan cũng có thể hoạt động tại một số vùng biển, gần Nhật Bản hơn là đường ranh giới do Đài Loan tuyên bố. Trong hiệp định, cả Nhật Bản và Đài Loan đều không đề cập đến chủ quyền đối với quần đảo Senkaku/Điếu Ngư[8].

            Thực tế, các cuộc đàm phán song phương về việc thiết lập vùng đánh cá chung giữa Nhật Bản và Đài Loan được khởi động từ năm 1996, nhưng bị đình hoãn vào năm 2009 và được nối lại từ tháng 11/2012. Hiệp định đánh bắt mới đặt trọng tâm vào hai vấn đề chính được coi là trụ cột trong việc đảm bảo môi trường đánh bắt ổn định. Một là hai bên sẽ không áp dụng pháp lệnh nghề cá của mỗi bên mà tạo dựng một “vùng biển không thuộc diện điều chỉnh của pháp lệnh trên” mà cả tàu cá của Nhật Bản và Đài Loan có thể cùng đánh bắt. Hai là hai bên có áp dụng pháp lệnh nghề cá nhưng sẽ tạo dựng “vùng biển hợp tác đặc biệt”, trong đó các bên tôn trọng giới hạn tối đa của việc đánh bắt của ngư dân[9].

            Thỏa thuận đánh bắt cá giữa Nhật Bản – Đài Loan tạo cơ sở để thiết lập các quy tắc chung về đánh bắt và giải quyết tranh chấp. Hai bên đã và đang xây dựng các quy tắc này trong khuôn khổ Ủy ban Nghề cá Nhật Bản-Đài Loan. Tuy nhiên, quá trình xây dựng quy tắc không diễn ra tốt đẹp do văn hóa đánh bắt khác nhau. Do đó, các tàu đánh cá Nhật Bản đã hạn chế hoạt động khi có sự hiện diện của các tàu đánh cá Đài Loan[10].

            Qua nội dung của vụ việc trên hiện nay, thỏa thuận hợp tác nghề cá giữa Nhật Bản và Đài Loan đến thời điểm hiện nay vẫn chưa có hiệu lực. Căn cứ theo quy định tại khoản 3 điều 74 Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982: “Trong khi chờ ký kết thỏa thuận ở khoản 1 điều 74 Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, các quốc gia hữu quan, trên tinh thần hiểu biết và hợp tác, làm hết sức mình để đi đến các dàn xếp tạm thời có tính chất thực tiễn và không phương hại hay cản trở việc ký kết các thỏa thuận dứt khoát trong giai đoán quá độ này. Các dàn xếp tạm thời không phương hại đến hoạch định cuối cùng”. Hiệp định này được ký kết trong mối quan hệ nhiều cấp giữa hai bên Nhật Bản và Đài Loan. Nội dung của hiệp định này cũng không mâu thuẫn với Hiệp định đánh bắt cá giữa Nhật Bản và Trung Quốc vào năm 2000 dưới góc nhìn của Luật biển quốc tế. Tuy nhiên, các bên vẫn chưa thống nhất được các quy định cụ thể liên quan đến số lượng cá cũng như số lượng tàu được phép đánh bắt sẽ dễ dẫn đến những va chạm xảy ra giữa hai bên.

            Công ước Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982 (Công ước Luật biển năm 1982 – tên Tiếng Anh là United NationsConvention on the Law of the Sea, hay thường được gọi tắt là UNCLOS 1982) được đánh giá là văn kiện pháp lý quan trọng được nhiều quốc gia ký kết. Công ước này có hiệu lực từ ngày 16/11/1994.

            Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982 đã trở thành cơ sở pháp lý quốc tế vững chắc, quan trọng, được thừa nhận và luôn được viện dẫn trong cuộc đấu tranh cam go, phức tạp để bảo vệ các vùng biển và thềm lục địa và các quyền và lợi ích chính đáng của nước ta trên biển. Trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, bên cạnh những những chứng cứ lịch sử, pháp lý chứng minh chủ quyền của Việt Nam đã được xác lập liên tục, hoà bình từ lâu đời đối với hai quần đảo, Công ước là công cụ pháp lý để phản bác những yêu sách phi lý, ngang ngược của Trung Quốc đối với cái gọi là “đường lưỡi bò” chiếm đến 80% diện tích Biển Đông, vốn là vùng biển nửa kín được bao bọc bởi 9 quốc gia, trong đó có Việt Nam.

            Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982 cũng là cơ sở pháp lý chung cho việc phân định vùng biển và thềm lục địa chồng lấn giữa nước ta với các nước xung quanh Biển Đông như Thái Lan, Trung Quốc, Indonesia, Malaysia…góp phần tạo dựng sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau, tạo môi trường ổn định, hoà bình, hợp tác và phát triển trong Biển Đông.

            2.2. Những tranh chấp về biển tại Việt Nam

            Xuất phát từ vị trí chiến lược và tầm quan trọng đối với các nước trong khu vực và cộng đồng quốc tế, Biển Đông lâu nay đã trở thành đối tượng tranh chấp gay gắt giữa các quốc gia trong khu vực. Ba tranh chấp cơ bản ở Biển Đông là tranh chấp chủ quyền, tranh chấp phân định quyền tài phán, và tranh chấp thứ ba liên quan đến việc kiểm soát vùng nước.

            – Tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ

            Những tranh chấp về chủ quyền liên quan đến vấn đề trong đó các quốc gia ven biển có quyền thực thi chủ quyền trên lãnh thổ tự nhiên của các đảo ở Biển Đông trong đó là 2 quần đảo: Trường Sa và Hoàng Sa. Quần đảo Hoàng Sa là tranh chấp song phương giữa Việt nam và Trung Quốc. Quần đảo Trường Sa là tranh chấp đa phương giữa Việt nam, Trung Quốc, Malaisya, Bruney. Ngoài ra trong khu vực Biển Đông cũng còn tồn tại một số tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ như tranh chấp chủ quyền 2 đảo Ligitan và Sepadan giữa Indonesia và Malaysia (đã được giải quyết năm 2003), tranh chấp giữa Malaysia và Singapore về chủ quyền đối với Đảo Đá trắng và hai cấu tạo địa lý khác.

            – Loại tranh chấp thứ 2 liên quan đến phân định ranh giới phạm vi quyền tài phán giữa các vùng biển liền kể, bao gồm cả vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Quyền tài phán theo luật pháp quốc tế không ngang bằng với chủ quyền đầy đủ trong đó quyền tài phán không bao gồm cùng một mức độ thẩm quyền tuyệt đối để cai trị các vấn đề liên quan đến Nhà nước. “Phạm vi của quyền tài phán là sự phản ánh của quyền lực nhà nước trong phạm vi ranh giới nhất định, khái niệm phạm vi quyền lực bao hàm việc áp dụng quyền hành Nhà nước chỉ đối với một tập hợp đối tượng đã được hạn chế và quy định”.

            Do các yêu sách về vùng biển và đặc điểm địa lý của khu vực Biển Đông không cho phép các quốc gia trong khu vực có thể đạt được yêu sách vùng biển tối đa của mình mà không tranh chấp với quốc gia khác nên trong khu vực này tồn tại khá nhiều các tranh chấp liên quan đến việc phân định vùng biển bao gồm:

            + Tranh chấp về phân định biển giữa Việt Nam và Trung Quốc ở trong vùng biển Vịnh Bắc Bộ và khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ.

            + Tranh chấp phân định biển giữa Việt Nam và Campuchia trong khu vực Vịnh Thái Lan.

            + Tranh chấp phân định biển giữa Việt Nam và Malaysia trong khu vực Vịnh Thái Lan và phía Nam Biển Đông.

            + Tranh chấp phân định biển giữa Việt nam và Indonesia ở phía Tây Nam Biển Đông

            + Tranh chấp phân định biển giữa Malaysia và Indonesia ở Biển Đông và trong khu vực eo biển Malacca..

            – Tranh chấp liên quan đến việc kiểm soát không gian biển

            Loại tranh chấp thứ ba liên quan đến kiểm soát không gian biển và cơ bản là về việc giải thích chính xác luật pháp quốc tế liên quan đến sự cân bằng của quốc gia ven biển và các quyền cũng như nghĩa vụ quốc tế trong các vùng đặc quyền kinh tế và các vùng nước ven biển khác. Tranh chấp liên quan đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các quốc gia trong các vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia ven biển mà điển hình là các tranh chấp liên quan đến việc đánh bắt hải sản trong các vùng biển chồng lấn hoặc đánh bắt hải sản trong vùng biển thuộc quyền tài phán một quốc gia, tranh chấp trong việc cho phép tiến hành nghiên cứu khoa học biển, cho phép đặt dây cáp ngầm ở vùng biển và thềm lục địa của quốc gia ven biển.

            Có thể thấy, do biển Đông nằm trên tuyến đường hàng hải trọng yếu, có nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên dầu khí và đi cùng nó là các hoạt động thăm dò khai thác dầu khí nên có nguy cơ ô nhiễm môi trường rất cao và hệ quả là có thể dẫn đến các tranh chấp liên quan đến việc gây ra ô nhiễm môi trường biển và các tranh chấp có liên quan.

            Những loại tranh chấp nêu trên đang diễn ra chủ yếu yếu trên Biển Đông Mặc dù Hội nghị Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng các nước ASEAN mở rộng diễn ra tại Hà Nội năm 2010 đã thống nhất phải giải quyết các tranh chấp Biển Đông bằng hòa bình đối thoại, nhưng Trung Quốc vẫn có những động thái thiếu tích cực cùng những hành động không thiện chí, nhằm đe dọa các bên tranh chấp điền hình như:

             “Ngày 02/5/2014, Trung Quốc ngang nhiên kéo giàn khoan Hải Dương 981 tới vị trí cách đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam 17 hải lý về phía Nam, cách đảo Lý Sơn của tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam khoảng 120 hải lý về phía Đông. Đây là vị trí nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển quốc tế năm 1982.

            Để bảo vệ quyền chủ quyền, quyền tài phán của mình trong vùng đặc quyền kinh tế theo đúng quy định của luật pháp quốc tế, Việt Nam đã cử 29 tàu chấp pháp tới các khu vực gần giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc khi nhận thấy giàn khoan này định thiết lập vị trí cố định. Lực lượng thực thi pháp luật của Việt Nam tích cực tuyên truyền, kêu gọi Trung Quốc chấm dứt ngay hành vi vi phạm pháp luật quốc tế, rút giàn khoan ra khỏi vùng biển Việt Nam.

            Ngày 05/5/2014, Việt Nam tổ chức họp báo, trong đó người phát ngôn Bộ Ngoại giao khẳng định mọi hoạt động của nước ngoài trên các vùng biển của Việt Nam khi chưa được phép của Việt Nam đều là bất hợp pháp và vô giá trị. Đáp lại, tàu Trung Quốc liên tục có những hành vi gây hấn, khiêu khích như mở bạt che pháo để uy hiếp, sử dụng vòi rồng tấn công tàu của Việt Nam, sẵn sàng đâm húc gây hư hỏng cho tàu Việt Nam và làm bị thương một số kiểm ngư viên.

            Ngày 11/5/2014, tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 24 ở Myanmar, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng lần đầu tiên công khai tố cáo Trung Quốc về việc đưa giàn khoan Hải Dương 981 cùng hơn 80 tàu hộ tống đi vào vùng biển Việt Nam và kêu gọi sự ủng hộ của quốc tế[11]”.

Bài Thu Hoạch Môn Học Công Pháp Quốc Tế trên đây có làm bạn hài lòng không? hãy cùng Luận Văn Tốt theo dõi phần còn lại nhé!

3. Rút ra bài học từ việc học môn học Công pháp quốc tế

   Trong điều kiện quốc tế ngày nay khi quá trình hội nhập ngày càng được xúc tiến nhanh, ngoại giao đa phương ngày càng giữ một vị trí quan trọng, góp phần nâng cao vị thế quốc tế của đất nước trên thế giới.  Ngày nay, sự giao lưu của các nước trên thế giới ngày càng mở rộng, phát triển và trở nên phức tạp, càng cần phải có luật quốc tế thích hợp để điều chỉnh mối quan hệ của các nước.

Ở nước ta, trước yêu cầu đổi mới, đồng thời mở rộng quan hệ với các nước trên nhiều lĩnh vực, chúng ta cần có sự hiểu biết về luật quốc tế để làm chuẩn mực cho các hoạt động đối nội và đối ngoại của chúng ta nhằm đảm bảo không những quyền lợi của nhà nước mà đảm bảo lợi ích của các quốc gia, tổ chức quốc tế liên chính phủ và các thực thể khác có quan hệ giao lưu buôn bán, làm ăn với nước ta. Cho nên, việc nâng cao ý thức pháp luật quốc tế là một nhu cầu cấp thiết đối với mọi đối tượng trong giai đoạn hiện nay.

Các nước trong đó có Việt Nam giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ cũng như tôn trọng lợi ích của các nước liên quan. Bên cạnh việc giải quyết tranh chấp bằng biện pháp đàm phán, thương lượng thì các nước cũng cần có sự chuẩn bị bằng các thiết chế tài phán. Để có thể chủ động trong mọi tranh chấp, chúng ta cần lưu ý quy trình, thủ tục của cơ quan tài phán giải quyết tranh chấp cũng như cần có sự chuẩn bị về yếu tố con người, yếu tố pháp lý, nghiên cứu một cách toàn diện chuyên sâu hệ thống pháp luật quốc tế về biển, thu thập chứng cứ rõ ràng đối với những trường hợp muốn giải quyết tranh chấp.

[1] Phương Minh (2020), “Quyền con người và luật nhân quyền quốc tế” truy cập tại trang truy cập 18/02/2022.

[2] Phương Minh (2020), “Quyền con người và luật nhân quyền quốc tế” truy cập tại trang truy cập 18/02/2022.

[3] Nguyễn Thị Thuận (chủ biên) (2007), Luật hình sự quốc tế, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.

[4] Trịnh Tiến Việt (2009), “Vai trò của luật hình sự quốc tế trong việc bảo vệ quyền con người”, Tạp chí tòa án nhân dân, (số 8, 9. 10).

[5] Trịnh Tiến Việt (2009), “Vai trò của luật hình sự quốc tế trong việc bảo vệ quyền con người”, Tạp chí tòa án nhân dân, (số 8, 9. 10

[6] Lê Cảm (2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật hình sự (Phần chung), Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, tr.877.

[7] Madoka Fukuda (2013), “The Japan-Taiwan Fisheries Agreement Will Not “Contain China”, truy cập tại tranghttp://www2.jiia.or.jp/en_commentary/201306/19-1.html ngày truy cập 18/02/2022.

[8] Thanh Tùng (2013), “Nhật cao tay “ly gián” Đài Loạn và Trung Quốc tại đảo tranh chấp”, truy cập tại trang cập 18/02/2022.

[9] Hoàng Liên Sơn (2013), “Thỏa thuận đánh cá giữa Nhật Bản – Đài Loan có hiệu lực”, truy cập tại trang truy cập 18 tháng 02 năm 2022.

[10] Tetsuo kotani (2015), “Hiệp định ngư nghiệp Nhật Bản – Đài Loan: Thành công về mặt chiến lược, thất bại về mặt chiến thuật”, truy cập tại

[11] Nguyến Đình Chiến (2018), “Nhìn lại sự kiện Hải Dương 981 và bài học kinh nghiệm trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo”, truy cập tại trang https://www.canhsatbien.vn/ ngày truy cập 14/08/2021.

Trên đây là Bài Thu Hoạch Môn Học Công Pháp Quốc Tế, với tài liệu tham khảo trên và những kiến thức mà các bạn đã có Luận Văn Tốt tin tưởng rằng bạn sẽ hoàn thành bài tiểu luận của mình một cách hiệu quả nhất. Nếu cần chúng tôi tư vấn hay hỗ trợ trong quá trình làm làm bài thì các bạn gọi ngay zalo/tele : 0934573149 hoặc nhắn tin với dịch vụ viết thuê tiểu luận của luanvantot.com. Chúc các bạn thành công và có bài tiểu luận đạt chất lượng cao.

DOWNLOAD MIỄN PHÍ

5 1 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Liên hệ