Mục lục
Cơ Sở Lý Luận Về Quyền Tiếp Cận Dược Phẩm Làm Luận Văn cũng là nội dung mà mình muốn chia sẻ đến các bạn sinh viện, học viên ngành Luật và các khối ngành kinh tế liên quan đang muốn làm bài luận văn tốt nghiệp Quyền Tiếp Cận Dược Phẩm hay quyền sở hữu trí tuệ. Bài viết đã được Luận Văn Tốt soạn thảo từ những bài luận văn đã được bảo vệ rất thành công của nhiều bạn học viên giỏi các khóa trước, hy vọng nó sẽ là tài liệu tham khảo có giá trị giúp các bạn giảm bớt áp lực và định hướng được cách triển khai cho bài làm của các bạn.
Bên cạnh việc cung cấp cho các bạn những tài liệu tham khảo có giá trị thì Luận Văn Tốt còn mang đến cho các bạn dịch vụ viết luận văn uy tín, đạt hiệu quả cao, giá thành thấp.., hãy liên hệ với chúng tôi zalo/tele : 0934573149 để được tư vấn.
1. Những vấn đề cơ bản về bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ đối với dược phẩm
1.1 Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
Cùng với quá trình phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia thì sự phát triển của KHKT ngày càng phát triển. Điều này đã đặt ra yêu cầu về việc thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản trí tuệ. Từ đó, điều này đã góp phần khẳng định vị trí và tầm quan trọng của mình trong tiến trình phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia. Mặc dù thuật ngữ quyền Sở hữu trí tuệ vẫn còn là một khái niệm pháp lí mơ hồ đối với nhiều người, song mức độ sử dụng thuật ngữ này đang ngày càng gia tăng, cùng với sự lan tỏa nhanh chóng của các vấn đề liên quan đến quyền Sở hữu trí tuệ.
Tài sản trí tuệ là yếu tố cơ bản hình thành quyền Sở hữu trí tuệ. Tài sản trí tuệ được hiểu là những thành quả do trí tuệ con người tạo ra thông qua hoạt động sáng tạo được thừa nhận là tài sản. Giống như các loại tài sản vật chất khác, tài sản trí tuệ có thể được mua, bán, cho phép sử dụng, trao đổi… Song, điểm khác biệt cơ bản nhất giữa tài sản trí tuệ với các loại tài sản vật chất đó chính là tính vô hình của tài sản trí tuệ. Tài sản trí tuệ là vô hình bởi vì nó chính là những thông tin được kết hợp chặt chẽ với nhau trong những vật thể hữu hình. Quyền sở hữu trong trường hợp này không phải là quyền đối với bản thân các vật thể hữu hình này, mà chính là những thông tin chứa đựng trong đó.
Hiện nay có nhiều khái niệm về quyền sở hữu trí tuệ. “Quyền sở hữu trí tuệ là quyền đối với các sản phẩm sáng tạo trí tuệ, sử dụng và chuyển giao các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ đối với dược phẩm, quyền liên quan và quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng. Cũng như các quan hệ pháp luật dân sự khác, những tranh chấp liên quan đến việc xác lập quvền, sử dụng và chuyển giao các đối tượng thuộc quyền sở hữu trí tuệ cũng thường phát sinh trong xã hội”[1].
Có thể nói rằng bất cứ khi nào một sản phẩm mới vào thị trường và thu hút khách hàng thành công, không sớm thì muộn sẽ bị các đối thủ cạnh tranh sản xuất các sản phẩm giống hoặc tương tự. Trong một số trường hợp, đối thủ cạnh tranh sẽ hưởng lợi từ việc tiết kiệm về quy mô sản xuất, khả năng tiếp cận thị trường lớn hơn, có quan hệ tốt hơn với các nhà phân phối chính hoặc tiếp cận với các nguồn nguyên liệu thô rẻ hơn và do đó, có thể sản xuất một sản phẩm tương tự hoặc giống hệt với giá thành rẻ hơn, tạo áp lực nặng nề lên nhà sáng tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ nguyên gốc. Đôi khi, điều này sẽ đẩy nhà sáng tạo gốc ra khỏi thị trường, đặc biệt khi mà họ đã đầu tư đáng kể vào việc phát triển sản phẩm mới thì đối thủ cạnh tranh lại hưởng lợi từ kết quả đầu tư đó và chẳng mất một xu nào cho thành quả sáng tạo và sáng chế của nhà sáng tạo gốc. Đây là lý do quan trọng duy nhất để các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải cân nhắc khi sử dụng hệ thống sở hữu trí tuệ để bảo vệ sản phẩm sáng tạo và sáng chế của mình nhằm mang lại cho họ các độc quyền sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thương hiệu, tác phẩm văn học nghệ thuật và các tài sản vô hình khác. Bảo hộ theo pháp luật sở hữu trí tuệ mang lại quyền sở hữu đối với tác phẩm sáng tạo hoặc đổi mới, do đó, hạn chế phạm vi sao chép và bắt chước của đối thủ cạnh tranh một cách đáng kể.
Hiện nay, chưa có một khái niệm để định nghĩa toàn diện về vấn đề bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, có thể hiểu bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ là việc Nhà nước sử dụng công cụ pháp lí và quyền lực bảo đảm cho các chủ sở hữu tài sản trí tuệ thực thi các quyền đối với tài sản trí tuệ của họ, ngăn chặn và xử lí các hành vi xâm phạm tài sản/quyền do người thứ ba thực hiện.
Sự cần thiết phải có cơ chế bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ được lí giải bởi những lí do sau:
Thứ nhất, Quyền sở hữu trí tuệ đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với sự phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay. Cùng với quá trình phát triển của thế giới thì cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật càng phát triển thì nhu cầu về bảo hộ Sở hữu trí tuệ càng cao. Tại một số quốc gia phát triển thì việc xây dựng một hành lang pháp lý với những quy định chặt chẽ trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Xu thế này đã khác so với nhiều thập niên trước, khi mà máy móc và công cụ sản xuất mới là tài sản chính của doanh nghiệp.
Thứ hai, đầu tư để tạo ra và phát triển tài sản trí tuệ là dạng đầu tư tốn kém, mất nhiều thời gian và chứa đựng rủi ro. Trong khi đó, nguy cơ tài sản trí tuệ bị chiếm đoạt/khai thác bất hợp lí là nguy cơ thường xuyên và rất hay xảy ra. Bản chất của tài sản trí tuệ là vô hình nhưng lại có đặc điểm là khả năng lan truyền không giới hạn, rất dễ bị sao chép, bắt chước, sử dụng… nhất là trong điều kiện công nghệ, kĩ thuật để thực hiện việc sao chép ngày càng cao. Những mối lợi khổng lồ do việc khai thai bất hợp pháp các tài sản trí tuệ mang lại là động lực thúc đẩy các hành vi phạm pháp. Việc khai thác trái phép trên thực tế lại rất khó để phát hiện và xử lí. Số lượng các vụ xâm phạm về nhãn hiệu, về tên thương mại, về tên miền… là rất phổ biến. Tuy nhiên việc điều tra và xử lí những vụ việc này thì chưa được chú trọng như những lĩnh vực dân sự khác. Thêm vào đó, cơ chế xử lí đối với những vụ việc xâm phạm quyền Sở hữu trí tuệ cũng chỉ mang tính chất cảnh cáo chứ chưa thực sự tương xứng với những lợi ích mà chủ thể vi phạm đã đạt được.
Thứ ba, bản thân các chủ sở hữu tài sản trí tuệ không có khả năng tự mình bảo vệ tài sản trí tuệ của họ trước nguy cơ xâm phạm. Kết quả dẫn đến nếu không có biện pháp hữu hiệu chống lại các hành vi vi phạm tài sản/quyền Sở hữu trí tuệ thì động lực sáng tạo và phát triển bị thủ tiêu, cạnh trạnh trở thành không lành mạnh. Mục tiêu của việc bảo hộ Sở hữu trí tuệ là bảo vệ các kết quả đầu tư sáng tạo, thúc đẩy các hoạt động đổi mới, bảo đảm cạnh tranh công bằng, trung thực, từ đó tạo ra động lực cho phát triển. Hiện nay ở các quốc gia trên thế giới cũng như Việt Nam, các biện pháp xử lí vi phạm về Sở hữu trí tuệ có thể chia thành 5 nhóm biện pháp chính:
- Biện pháp tự bảo vệ
- Biện pháp dân sự
- Biện pháp hành chính
- Biện pháp hình sự
- Kiểm soát hàng hóa xuất nhập khẩu
Chính vì những lẽ trên, bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ là bảo hộ quyền sử dụng và quyền định đoạt của chủ thể nắm giữ tài sản trí tuệ đó. Việc bảo hộ này đồng thời cũng làm hạn chế khả năng tiếp cận và khai thác tài sản trí tuệ của các chủ thể khác. Pháp luật điều chỉnh về quyền Sở hữu trí tuệ xuất hiện từ rất sớm, quyền sở hữu trí tuệ đối với dược phẩm được đề cập đến lần đầu vào thế kỉ XV, và đã trải qua quá trình phát triển lâu dài song song với sự phát triển của nền kinh tế – xã hội thế giới. Hầu hết các đạo luật đều không tiếp cận khái niệm quyền Sở hữu trí tuệ theo cách định nghĩa mà sử dụng phạm vi đối tượng điều chỉnh. Quá trình hình thành các chế định điều chỉnh luật Sở hữu trí tuệ đã cho thấy một phạm vi điều chỉnh tương đối hoàn chỉnh của quyền Sở hữu trí tuệ gồm ba nhánh cơ bản, gồm: quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng.
XEM THÊM : Luận Văn Thạc Sĩ Quyền Tác Giả
1.2 Bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ đối với dược phẩm
* Cách thức tiếp cận
Cơ Sở Lý Luận Về Quyền Tiếp Cận Dược Phẩm, về quyền Sở hữu trí tuệ dược phẩm được xuất hiện xuất hiện từ rất sớm, quyền sở hữu trí tuệ đối với dược phẩm được đề cập đến lần đầu vào thế kỉ XV, và đã trải qua quá trình phát triển lâu dài song song với sự phát triển của nền kinh tế – xã hội thế giới. Hầu hết các đạo luật đều không tiếp cận khái niệm quyền Sở hữu trí tuệ theo cách định nghĩa mà sử dụng phạm vi đối tượng điều chỉnh. Quá trình hình thành các chế định điều chỉnh luật Sở hữu trí tuệ đã cho thấy một phạm vi điều chỉnh tương đối hoàn chỉnh của quyền Sở hữu trí tuệ gồm ba nhánh cơ bản.
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với dược phẩm được hiểu một cách khái quát là việc nhà nước thông các quy định của pháp luật xác lập, duy trì quyền cho các tổ chức và cá nhân đối với sáng chế và bảo vệ quyền đó chống lại sự xâm phạm từ các chủ thể khác. Từ đó ta có thể định nghĩa bảo hộ quyền tiếp cận dược phẩm như sau: Bảo hộ Sở hữu trí tuệ dược phẩm là việc nhà nước thông qua hệ thống pháp luật nhằm xác lập quyền của chủ thể đối với sáng chế dược phẩm của họ thông qua hình thức cấp bằng bảo hộ quyền tiếp cận dược phẩm và bảo vệ quyền đó, chống lại bất kỳ sự vi phạm nào của bên thứ ba.
Theo Luật Sở hữu trí tuệ (SHTT) hiện hành, sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên. Bảo hộ bảo hộ quyền tiếp cận dược phẩm có nghĩa là bảo hộ quyền của chủ sở hữu được toàn quyền khai thác cả về kỹ thuật và thương mại đối với sáng chế đã được đăng ký trong thời gian được bảo hộ (thông thường là 20 năm). Đối với các sáng chế về dược phẩm, việc bảo hộ độc quyền cho phép chủ sở hữu có thể khai thác hợp pháp sáng chế để thu hồi chi phí nghiên cứu đã bỏ ra đồng thời kích thích việc tìm ra các sáng chế mới.Tuy nhiên, việc bảo hộ bảo hộ quyền tiếp cận dược phẩm dược phẩm cũng có những mặt trái, nhất là nó làm cho giá thuốc chữa bệnh sẽ bị đẩy lên cao, đồng nghĩa với việc hạn chế khả năng tiếp cận của công chúng đối với những sáng chế mới trong lĩnh vực dược phẩm nói chung và các loại thuốc chữa bệnh nói riêng.
Để giải quyết mâu thuẫn này, Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (“TRIPS”) và Tuyên bố của WTO về TRIPS và Sức khỏe cộng đồng (“Tuyên bố Đô-ha”) đã đưa ra một số biện pháp linh hoạt trong việc bảo hộ sáng chế. Bài viết này phân tích các quy định của TRIPS và pháp luật hiện hành về Sở hữu trí tuệ của Việt Nam liên quan đến việc bảo hộ sáng chế trong lĩnh vực dược phẩm, sự ảnh hưởng của việc cấp bằng bảo hộ quyền tiếp cận dược phẩm dược phẩm đối với giá thuốc chữa bệnh và vấn đề cạnh tranh & tiếp cận thuốc generic trên thế giới cũng như ở Việt Nam.
* Các hình thức bảo hộ
Những hình thức sở hữu trí tuệ chủ yếu là bằng sáng chế, bản quyền, nhãn hiệu và bí mật thương mại. Do sở hữu trí tuệ cũng có nhiều đặc tính của sở hữu cá nhân và sở hữu tài sản thực sự nên những quyền lợi gắn liền với sở hữu trí tuệ cho phép chúng ta có thể mua, bán, cấp phép hay thậm chí là cho không sở hữu trí tuệ của chúng ta như tài sản thông thường. Luật về sở hữu trí tuệ cho phép chủ sở hữu, người phát minh và tác giả bảo vệ tài sản của mình trước việc sử dụng trái phép. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, bản quyền: “Bản quyền là một thuật ngữ pháp lý mô tả quyền lợi kinh tế của người sáng tác ra các tác phẩm văn học và nghệ thuật, trong đó bao gồm quyền tái bản, in ấn và trình diễn hay trưng bày tác phẩm của mình trước công chúng. Bản quyền chủ yếu nhằm bảo vệ âm nhạc, phim ảnh, tiểu thuyết, thơ ca, kiến trúc và các tác phẩm nghệ thuật có giá trị văn hóa khác. Khi nghệ sỹ và người sáng tác đưa ra những hình thức thể hiện khác thì những loại hình thể hiện mới này cũng được bao gồm trong trong những công trình được bảo hộ bản quyền. Các chương trình máy tính và ghi âm giờ đây cũng được bảo vệ”[2].
“Bản quyền cũng được bảo vệ lâu hơn nhiều so với một số hình thức sở hữu trí tuệ khác. Công ước Berne, công ước quốc tế được ký năm 1886, theo đó các nước tham gia công ước công nhận các tác phẩm được bảo hộ bản quyền của các nước thành viên, quy định rằng thời gian bảo hộ bản quyền là 50 năm kể từ khi tác giả qua đời. Theo Công ước Berne thì các tác phẩm văn học, nghệ thuật và các tác phẩm có giá trị khác được bảo hộ bản quyền ngay từ khi ra đời. Tác giả không cần phải đăng ký chính thức quyền bảo hộ cho tác phẩm của mình tại những quốc gia là thành viên của Công ước đó”[3].
“Tuy nhiên, Công ước Berne cho phép cấp bản quyền có điều kiện, chẳng hạn như trường hợp của Hoa Kỳ chỉ bảo hộ bản quyền đối với những tác phẩm được sáng tác theo những hình thức nhất định. Nhiều nước cũng có các trung tâm bản quyền quốc gia để quản lý hệ thống bản quyền. Chẳng hạn như ở Hoa Kỳ, Hiến pháp cho phép Quốc hội ban hành luật để thiết lập hệ thống bản quyền và hệ thống này do Phòng Bản quyền thuộc Thư viện Quốc hội quản lý”[4].
“ Phòng Bản quyền của Hoa Kỳ là nơi nhận các khiếu nại về bản quyền và là nơi các văn bản liên quan tới bản quyền được lưu giữ khi đáp ứng được các yêu cầu của luật bản quyền Hoa Kỳ. Tuy nhiên, đối với tất cả các tác phẩm – kể cả tác phẩm nước ngoài – thì việc đăng ký bản quyền mau lẹ ở Hoa Kỳ sẽ đem lại những thuận lợi với chi phí không đáng kể. Khả năng nhanh chóng đăng ký quyền bảo hộ bản quyền đã làm cho các ngành công nghiệp giải trí khổng lồ của Hoa Kỳ phát triển mạnh mẽ. Theo báo cáo năm 2004 của Stephen Siwek về các ngành công nghiệp được bảo hộ bản quyền trong nền kinh tế Hoa Kỳ thì các ngành công nghiệp được bảo hộ bản quyền “chủ yếu” ở Hoa Kỳ đóng góp 6% vào GDP năm 2002 của Hoa Kỳ, hay 626,2 tỷ đô-la Mỹ. Báo cáo định nghĩa các ngành công nghiệp được bảo hộ bản quyền “chủ yếu” là ngành báo chí, xuất bản sách, ghi âm, âm nhạc, tạp chí thường kỳ, phim ảnh, chương trình truyền hình và phát thanh, phần mềm máy tính”[5]. Bản quyền bảo vệ việc xử lý số liệu nhưng không bảo vệ những số liệu mới được thu thập. Hơn nữa, bản quyền không bảo vệ ý tưởng hay quy trình mới; nếu ý tưởng hay quy trình được bảo hộ thì sẽ được bảo hộ trong bằng sáng chế.
* Bằng sáng chế: “Người ta có thể nói rằng bằng sáng chế là hợp đồng giữa một bên là toàn thể xã hội và một bên là cá nhân nhà phát minh. Theo các điều khoản của hợp đồng này, nhà phát minh được toàn quyền ngăn chặn người khác không được áp dụng, sử dụng và bán một phát minh đã được cấp bằng sáng chế trong một khoảng thời gian nhất định – hầu hết các nước quy định là 20 năm – để đổi lại việc nhà phát minh phải công bố chi tiết phát minh của mình cho công chúng”[6]. “Nếu không có sự bảo hộ của bằng sáng chế thì nhiều sản phẩm đã không bao giờ xuất hiện, đặc biệt là những sản phẩm cần vốn đầu tư lớn nhưng một khi đã bán ra thị trường thì dễ dàng bị các đối thủ cạnh tranh bắt chước làm theo. Ít nhất là kể từ năm 1474 khi nước Cộng hòa Venice lần đầu tiên cấp bằng sáng chế thì việc bảo hộ bằng sáng chế đã thúc đẩy sự phát triển và phổ biến những công nghệ mới”[7]. “Nếu không có bằng sáng chế thì sẽ không thể có sự phát triển công nghệ. Nếu các nhà sáng chế phải bảo vệ sáng chế của mình bằng cách giữ bí mật về những sáng chế đó thì điều quan trọng hơn là những sáng chế không được công bố này sẽ bị mai một đi. “Tuy nhiên, việc xin cấp bằng sáng chế không hề đơn giản. Bằng sáng chế không được cấp cho những ý tưởng mơ hồ mà chỉ được cấp cho những đơn xin cấp bằng được trình bày một cách cụ thể và cẩn thận. Nhằm tránh việc bảo hộ cho những công nghệ đã được phổ biến hay công nghệ mà đến thợ thủ công bình thường cũng dễ dàng làm được, những đơn xin cấp bằng sáng chế phải được các chuyên gia xem xét. Do đơn xin cấp bằng sáng chế khác nhau rất nhiều về giá trị của công nghệ mà đơn đòi bảo hộ, người xin cấp bằng sáng chế phải nói rõ phạm vi bảo hộ hợp lý. (Phạm vi bảo hộ buộc người nộp đơn xin cấp bằng sáng chế phải rất thận trọng trong việc đưa ra giới hạn về phát minh của mình và những gì sẽ được bảo hộ khỏi sự xâm phạm). Việc này thường mất hai năm hoặc lâu hơn và rất tốn kém”[8].
* Bí mật thương mại: “Bất cứ thông tin nào có thể được sử dụng trong việc điều hành doanh nghiệp và có giá trị lớn trong việc tạo ra lợi ích kinh tế trong tương lai hay trong thực tại đều được coi là bí mật thương mại. Ví dụ về bí mật thương mại có thể là công thức sản xuất ra các sản phẩm, chẳng hạn như công thức sản xuất Coca-Cola; việc thu thập thông tin nhằm tạo ra lợi thế cạnh tranh cho một doanh nghiệp, chẳng hạn như cơ sở dữ liệu về danh sách khách hàng; bí mật thương mại thậm chí gồm cả chiến lược quảng cáo và quy trình phân phối”[9].
“Khác với bằng sáng chế, bí mật thương mại về lý thuyết được bảo vệ vô thời hạn và không cần thủ tục đăng ký gì. Tuy nhiên, bí mật thương mại thường dễ bị lộ và việc bảo vệ bí mật thương mại thì phải trả tiền. Trường hợp tốt nhất là các công ty phải hạn chế sự ra vào văn phòng và sự tiếp cận với các tài liệu, giáo dục các nhân viên chủ chốt và thanh tra chính phủ và giám sát chặt chẽ các ấn phẩm và các buổi thuyết trình về sản phẩm. Cho dù việc giữ bí mật rất tốn kém nhưng các công ty lớn chủ yếu dựa vào việc giữ bí mật khi không xin được bằng sáng chế. Công ty càng lớn thì lại càng cần pháp luật bảo vệ bí mật thương mại”[10].
Những công ty không thể dựa vào tòa án để bảo vệ những bí mật quan trọng thì phải dựa vào chính mình. Chẳng hạn như họ có thể hạn chế nghiêm ngặt số lượng người có thể tiếp cận các thông tin cạnh tranh quan trọng. Tương tự như vậy, thông tin cần thiết cho những hoạt động quan trọng sẽ chỉ được tiết lộ khi bí mật thương mại được bảo vệ đầy đủ. Nếu không thì chỉ đào tạo trên mức cần thiết một số rất ít nhân viên để làm những nhiệm vụ lắp ráp không đòi hỏi chuyên môn cao.
* Nhãn hiệu: “Nhãn hiệu là chỉ số chỉ dẫn thương mại, là dấu hiệu phân biệt để xác định một loại hàng hóa hay dịch vụ do một cá nhân hay công ty cụ thể sản xuất hoặc cung cấp. Tại các làng xã, thợ chữa giày dùng tên của mình để làm chức năng này. Nhãn hiệu đặc biệt quan trọng khi người sản xuất và tiêu dùng ở cách xa nhau. Ở hầu hết các nước trên thế giới, nhãn hiệu cần phải được đăng ký thì mới có thể bảo hộ được và việc đăng ký cần phải được gia hạn. Thế nhưng trong khi bản quyền và bằng sáng chế tự hết hạn thì tên của công ty phục vụ khách hàng tốt sẽ ngày càng trở nên có giá. Nếu giả sử nhãn hiệu cũng bị hết hạn thì khách hàng cũng bị thiệt hại chẳng kém gì người sở hữu nhãn hiệu. Chúng ta thử tưởng tượng sẽ hỗn loạn như thế nào khi các công ty vô danh lại bán sản phẩm của mình với nhãn hiệu của công ty khác. Và chúng ta hãy thử xem xét trường hợp chất lượng đáng ngờ của tân dược giả và những điều tệ hại, thậm chí là tử vong, có thể xảy ra khi người sử dụng không hề nghi ngờ gì về chất lượng của thuốc”[11].
* Các loại sở hữu trí tuệ khác
Trong số các hình thức sở hữu trí tuệ cơ bản còn có rất nhiều loại hình bảo hộ đa dạng và đặc biệt. Tương tự như vậy, kiểu dáng mỹ thuật hay kiểu dáng trang trí của các đồ điện, ghế và các vật dụng khác cũng được bảo hộ theo nhiều cách khác nhau. Nhiều kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ ở Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc như đối với sáng chế về kiểu dáng. Các nước khác đặc biệt là ở châu Âu còn có các loại hình bảo hộ tương tự như bản quyền. Ở Hoa Kỳ, các tác phẩm có kiểu dáng mỹ thuật thuần túy như đồ trang sức hay các mẫu vải có thể áp dụng cho các loại sợi được bảo hộ bằng bản quyền. Ngoài ra, Hoa Kỳ còn bảo hộ theo luật định hai loại hình đặc biệt là các giống cây trồng mới, kiểu thân tàu độc đáo và con chíp máy tính. Kiểu dáng chỉ nhằm mục đích chỉ rõ nguồn gốc thương mại có thể được bảo hộ theo luật về nhãn hiệu.
* Nguyên tắc bảo hộ
Vấn đề bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ đối với dược phẩm đã được đặt ra từ lâu đời trong rất nhiều các hệ thống pháp luật trên thế giới. Hầu hết các sản phẩm mang giá trị sở hữu trí tuệ đều nhằm phục vụ cho các lợi ích của xã hội, Vì vậy một trong những nguyên tắc cơ bản của hệ thống Sở hữu trí tuệ là nguyên tắc cân bằng lợi ích của chủ sở hữu trí tuệ và lợi ích của xã hội. Nguyên tắc này được thể hiện xuyên suốt toàn bộ quá trình bảo hộ từ xác lập quyền, duy trì quyền cho đến việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.Việc thực hiện đúng nguyên tắc này có ý nghĩa rất lớn cho quá trình bảo vệ và khai thác quyền Sở hữu trí tuệ, đặc biệt đối với các nước đang phát triển như Việt Nam.
Nguyên tắc cân bằng lợi ích của chủ sở hữu trí tuệ và lợi ích của xã hội đã có một lịch sử phát triển lâu dài. Tại hầu hết các quốc gia, nguyên tắc này ra đời cùng với sự ra đời của các quy định về bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ đối với dược phẩm. Tuy nhiên, nội dung cơ bản của nguyên tắc này khi mới hình thành chỉ tập trung vào quy định về giới hạn về thời hạn bảo hộ các đối tượng Sở hữu trí tuệ. Chỉ đến khi những quy định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đã trở nên phổ biến và tác động trực tiếp đến quyền lợi của đông đảo công chúng thì các quốc gia càng nỗ lực trong việc tìm kiếm những giải pháp nhằm hài hoà lợi ích giữa các chủ thể có liên quan như lợi ích giữa tác giả và chủ sở hữu trí tuệ, giữa các chủ thể này với quốc gia, với công chúng, trong đó quan trọng nhất là sự cân bằng lợi ích giữa chủ Sở hữu trí tuệ và lợi ích của xã hội.
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, kỹ thuật, các tài sản Sở hữu trí tuệ ngày càng giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế và trong đời sống xã hội. Điều này đòi hỏi các nước một mặt phải xây dựng và hoàn thiện các quy chế pháp lý nhằm bảo vệ và thực thi có hiệu quả các quyền, lợi ích hợp pháp của tác giả, chủ Sở hữu trí tuệ, mặt khác cũng phải quy định và tìm các giải pháp nhằm đảm bảo cho công chúng tiếp cận và khai thác các đối tượng Sở hữu trí tuệ, đặc biệt ở các quốc gia kém hoặc đang phát triển, tránh sự lạm dụng quyền của các chủ Sở hữu trí tuệ. Đây thực sự là thách thức lớn đối với hệ thống Sở hữu trí tuệ, đặc biệt là các nước đang và kém phát triển.
Bản chất của nguyên tắc cân bằng lợi ích giữa chủ Sở hữu trí tuệ và lợi ích xã hội là sự dung hoà quyền lợi giữa các bên nhằm tạo ra điều kiện tồn tại và phát triển cho chính các bên, cao hơn nữa là thúc đẩy sự phát triển của văn học, khoa học và kỹ thuật. Mỗi bên sẽ phải hi sinh một phần quyền lợi của mình để hướng tới lợi ích chung lớn hơn mà sâu xa hơn chính là tạo ra một xã hội phát triển bền vững, công bằng và bình đẳng.
Chủ thể nắm giữ quyền Sở hữu trí tuệ có quyền cho phép hoặc ngăn cấm các chủ thể khác sử dụng đối tượng Sở hữu trí tuệ thuộc quyền sở hữu của mình mà không cần phải chiếm hữu quyền đó trên thực tế. Việc định đoạt loại tài sản vô hình này được thực hiện thông qua sự cho phép hay cấm bất kỳ chủ thể nào khác khai thác các đối tượng Sở hữu trí tuệ. Chính vì đặc điểm này mà quyền Sở hữu trí tuệ rất dễ bị xâm phạm. Điều này đòi hỏi quyền Sở hữu trí tuệ phải được pháp luật bảo hộ bằng một cơ chế thích hợp, việc bảo hộ Sở hữu trí tuệ chính là tạo ra môi trường pháp lý để bảo vệ quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu Sở hữu trí tuệ, thúc đẩy sự sáng tạo để phát triển nền kinh tế tri thức. Và việc bảo hộ hiệu quả quyền Sở hữu trí tuệ chịu sự ảnh hưởng rất lớn từ chính sách của nhà nước đến hệ thống pháp luật và cơ chế thực thi quyền cũng như nhận thức và ý thức của xã hội. Tuy nhiên, nếu chỉ hướng tới mục đích bảo vệ các tác giả, các chủ Sở hữu trí tuệ thì có thể dẫn đến sự lạm dụng độc quyền của chủ Sở hữu trí tuệ và ảnh hưởng đến việc tiếp cận tri thức, tiếp cận thành quả khoa học kỹ thuật của đông đảo công chúng chưa kể đến nếu bảo hộ quá lâu, quá rộng sẽ dẫn đến sự cản trở giao lưu văn hoá, khoa học giữa các quốc gia lẫn nhau. Đối với công chúng, ngoài các quyền cơ bản như: quyền được sống, quyền được mưu cầu hạnh phúc, tự do ngôn luận…Điều này cũng sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế-văn hóa của xã hội. Ngược lại, nếu công chúng chỉ chú ý đến nhu cầu thưởng thức tác phẩm văn học hay khai thác các lợi ích kinh tế từ các đối tượng Sở hữu trí tuệ mà không bù đắp chi phí một cách thỏa đáng cho tác giả, các chủ Sở hữu trí tuệ thì điều này sẽ không khuyến khích được sự sáng tạo và như vậy sẽ không thúc đẩy được sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên sự mâu thuẫn lợi ích này không triệt tiêu lẫn nhau vì mục đích cuối cùng của hai chủ thể này là đều hướng đến các sản phẩm sáng tạo. Một bên muốn phổ biến, cung cấp thông tin và các thành tựu sáng tạo cho đông đảo công chúng và muốn được khai thác giá trị thương mại từ chính các sản phẩm đó. Một bên muốn được khai thác các sản phẩm đó với chi phí hợp lý nhất. Bởi lẽ, điều cản trở không ít cá nhân đến với tri thức ở đây chính là rào cản kinh tế, điều kiện của mỗi quốc gia. Điều kiện sống khó khăn tại các nước đang và kém phát triển đã không cho phép một số không nhỏ công chúng bỏ ra một chi phí quá lớn để có được tri thức. Trong vấn đề này Nhà Nước với tư cách là một bên trong “khế ước xã hội” có trách nhiệm tạo ra điều kiện tốt nhất để công dân của mình được tiếp cận tri thức ở mức sâu rộng nhất với chi phí hợp lý nhất. Điều đó đòi hỏi mỗi quốc gia phải có chiến lược, chính sách, pháp luật về Sở hữu trí tuệ đáp ứng đồng thời hai yêu cầu: Thứ nhất, đảm bảo một cơ chế bảo hộc quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối với các sản phẩm trí tuệ. Thứ hai, đảm bảo cho công chúng được tiếp cận tri thức rộng rãi. Đáp ứng được hai yêu cầu này tức là quốc gia đã giải quyết tốt mối quan hệ về lợi ích giữa tác giả, chủ Sở hữu trí tuệ và công chúng. Do đó, cân bằng lợi ích giữa các chủ thể này bằng nhiều giải pháp từ những góc độ khác nhau chính là nhằm mục đích bảo vệ lợi ích cho cả hai bên để hướng tới một xã hội tri thức. Với mục đích tạo cơ hội để đông đảo công chúng được nắm giữ nguồn tri thức từ sự sáng tạo của tác giả cũng như khuyến khích phát huy sự sáng tạo của mỗi cá nhân, nguyên tắc cân bằng lợi ích giữa tác giả, chủ Sở hữu trí tuệ và công chúng ra đời mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhất là với các nước đang phát triển như Việt Nam. Thực hiện tốt nguyên tắc này trên thực tế sẽ không chỉ góp phần thúc đẩy sự sáng tạo mà còn hạn chế tình trạng vi phạm quyền Sở hữu trí tuệ.
XEM THÊM : Luận Văn Thạc Sĩ Về Quyền Con Người
1.3 Ý nghĩa của việc bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ đối với dược phẩm
Trên Cơ Sở Lý Luận Về Quyền Tiếp Cận Dược Phẩm và thực tiễn thì việc bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ đối với dược phẩm có vai trò sau:
Một là, thông qua việc ban hành các quy định pháp luật quy định về bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ đối với dược phẩm sẽ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về vấn đề này. Những quy định của pháp luật trong quá trình thực hiện chức năng về quản lí nhà nước đối với lĩnh vực bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ đối với dược phẩm chính là những cơ sở pháp lí cơ bản của quy định cơ cấu tổ chức của các cơ quan quản lí nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ nói chung. Có thể thấy pháp luật bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ đối với dược phẩm có một vai trò quan trọng đối với lĩnh vực Sở hữu trí tuệ. Việc hình thành hệ thống cơ quan quản lý Sở hữu trí tuệ nằm trong hệ thống cơ quan nhà nước nói chung và được tổ chức thống nhất từ cấp Trung ương xuống địa phương. Thông qua việc quy định chức năng của mình thì các cơ quan trên thực hiện hoạt động kiểm tra giám sát thường xuyên các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật về Sở hữu trí tuệ, kịp thời ngăn chặn, phát hiện và xử lý những vi phạm đối với lĩnh vực mà mình quản lý.
Hai là, trong vấn đề về QLNN thì vấn đề bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ đối với dược phẩm có vai trò, ý nghĩa quan trọng, góp phần trong việc đảm bảo thực hiện các quy định về thực hiện quyền Sở hữu trí tuệ của người dân trong quá trình phát triển của đất nước và xã hội của mỗi quốc gia. Bằng việc quy định cụ thể về vấn đề bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ đối với dược phẩm tại các văn bản pháp lý hiện hành là điều kiện bảo đảm an toàn đối lĩnh vực Sở hữu trí tuệ ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, phù hợp với sự phát triển của thế giới hiện nay. Hệ thống văn bản pháp lý có vai trò không thể thay thế được trong việc đảm bảo thực hiện các quy định về quy định về vấn đề này, đồng thời đây cũng là cơ sở quy định hoạt động của các cơ quan quản lí nhà nước trong lĩnh vực bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ của nhà nước đối với các chủ thể ở nước ta hiện nay .
Ba là, đối với xã hội thì vấn đề quy định về bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ đối với dược phẩm có vai trò to lớn đối với quá trình phát triển bền vững của mỗi một quốc gia. Do đó, việc ban hành các quy phạm pháp luật trong quản lí nhà nước đối với lĩnh vực bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ đối với dược phẩm là cơ sở pháp lí cho việc cơ quan nhà nước thực hiện chức năng thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lí các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực Sở hữu trí tuệ. Việc thanh tra, giám sát được thực hiện thường xuyên, định kì hàng năm hoặc kiểm tra đột xuất dựa vào các văn bản pháp luật do nhà nước ban hành, còn xử lí vi phạm được áp dụng cho mọi cá nhân tổ chức trong và ngoài nước có những hành vi vô ý hoặc cố tình vi phạm các quy định nhà nước trong lĩnh vực Sở hữu trí tuệ.
Bốn là, vì vấn đề bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ đối với dược phẩm là một vấn đề quan trọng nên hoạt động QLNN về vấn đề này có tác động đến kinh tế và xã hội. Việt Nam hiện nay đang thực hiện công cuộc xây dựng và phát triển đất nước nên cùng với quá trình xây dựng thì việc bảo vệ quyền Sở hữu trí tuệ nói chung và bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ đối với dược phẩm nói riêng ngoài ý nghĩa kinh tế còn có ý nghĩa chính trị, xã hội rất quan trọng. Đặt hoạt động QLNN về bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ đối với dược phẩm trong quá trình xây dựng và phát triển lên hàng đầu và trở thành chiến lượng với ý nghĩa là vô cùng phù hợp với quá trình hội nhập trong khu vực và trên trường quốc tế trong những năm trở lại đây.
Năm là, quy định về bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ đối với dược phẩm có vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức của xã hội về lĩnh vực này. Những quy định về bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ đối với dược phẩm có vai trò trong việc giáo dục, truyền thông để từ đó góp phần nâng cao nhận thức của xã hội về vấn đề xây dựng và phát triển nền kinh tế – xã hội lành mạnh, đảm bảo quyền và lợi ích của hoạt động sáng tạo văn hóa, nghệ thuật nói riêng. Góp phần quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế – xã hội một cách bền vững ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
2. Những vấn đề cơ bản về quyền tiếp cận dược phẩm
2.1 Những khái niệm cơ bản
Chi phí cho dược phẩm chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng chi phí bảo vệ và chăm sóc sức khỏe. Nếu người bệnh không được sử dụng dược phẩm đúng, đầy đủ và hợp lý, việc bảo vệ và chăm sóc sức khỏe của họ sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Vì vậy, quyền tiếp cận dược phẩm là bộ phận cấu thành cơ bản, không thể thiếu của quyền được bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nói chung. “Trong khi đó, quyền về sức khỏe nói chung được thừa nhận rộng rãi là một trong những quyền cơ bản của con người. Tuyên ngôn về QCN năm 1948 (khoản 1 Điều 25) xác nhận mọi người đều có quyền được hưởng mức sống đủ để đảm bảo sức khoẻ và phúc lợi của bản thân và gia đình, trong đó có ăn, mặc, ở, chăm sóc y tế; quyền được bảo đảm trong trường hợp ốm đau, tàn tật, già yếu. Quyền về sức khỏe này được khẳng định lại trong Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 (Điều 12), theo đó, con người có quyền được hưởng điều kiện tốt nhất có thể về sức khỏe thể chất và tinh thần”[12].
“Ủy ban các Quyền kinh tế, xã hội và văn hóa của LHQ đã nhấn mạnh rằng, quyền về sức khỏe là một QCN cơ bản, không thể thiếu trong việc thực thi các QCN. Ủy ban này đã giải thích rằng quyền về sức khỏe không chỉ giới hạn ở quyền về chăm sóc y tế; nó bao hàm hàng loạt các yếu tố kinh tế – xã hội thúc đẩy các điều kiện đảm bảo cho con người có một cuộc sống khỏe mạnh, trong đó, yếu tố tiếp cận dược phẩm đảm bảo chất lượng, số lượng và giá cả hợp lý được đề cao”[13].
Như vậy, quyền tiếp cận dược phẩm nói riêng hay quyền về sức khỏe nói chung là một bộ phận không thể thiếu của QCN. Có nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến việc tiếp cận dược phẩm như giá dược phẩm, khả năng của ngành công nghiệp dược, nguồn nhân lực liên quan, khoảng cách địa lý, việc mua sắm (đấu thầu) dược phẩm, hệ thống bảo hiểm y tế…; trong đó, giá dược phẩm là cản trở lớn nhất đối với quyền tiếp cận dược phẩm, đặc biệt đối với người nghèo. “Hiện nay, khoảng 90% dân số ở các nước đang phát triển phải trả tiền mua dược phẩm từ tiền túi của họ, chi phí cho dược phẩm chỉ đứng sau chi phí cho thực phẩm18. Kofi Annan – khi còn là Tổng thư ký LHQ – đã phát biểu, nhân loại không thể chấp nhận việc người bệnh không thể tiếp cận được dược phẩm để bảo đảm sức khỏe của mình chỉ vì lý do họ nghèo”.
Các tranh luận ở cả bình diện quốc gia lẫn quốc tế hiện nay về quyền tiếp cận dược phẩm thường xoay quanh các nghi ngờ như: (i) các quy định về thương mại liên quan đến dược phẩm hiện nay chủ yếu phục vụ cho người giàu cũng như nước giàu; (ii) các lợi ích kinh tế đang thống trị các mối quan tâm về y tế; (ii) dược phẩm đang được coi và được đối xử như các hàng hóa thông thường mặc dù nó có vai trò đặc biệt trong phòng và chữa bệnh; (iv) các khía cạnh xã hội đang bị bỏ quên khi quyền Sở hữu trí tuệ (quyền sáng chế) đối với dược phẩm đang được coi trọng hơn quyền về sức khỏe”[14].
Hiện nay, hầu hết các sáng chế mới trong lĩnh vực dược phẩm do các công ty dược đa quốc gia có trụ sở chính ở các nước phát triển nắm giữ. Các công ty này thường lập luận rằng, họ phải định giá dược phẩm mới ở mức cao nhằm thu hồi chi phí đầu tư cho nghiên cứu và triển khai. Điều này sẽ ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận các dược phẩm mới này của người bệnh ở các nước đang và kém phát triển. Những người ủng hộ việc tiếp cận dược phẩm ở các nước nghèo thường lập luận rằng, việc định giá độc quyền như vậy vi phạm QCN trong việc tiếp cận dược phẩm, nhất là khi Hiệp định TRIPS (có hiệu lực từ ngày 1/1/1995) bắt buộc các nước đang phát triển phải bảo hộ quyền sáng chế đối với dược phẩm từ 1/1/2005, và các nước kém phát triển (sau khi được gia hạn) phải bảo hộ từ 1/1/201621. Vì vậy, pháp luật và các điều ước liên quan đến quyền Sở hữu trí tuệ cần phải phản ánh sự “chia sẻ và nhận thức đúng đắn” của các chủ thể liên quan, nhất là từ các nước phát triển22; cần phải bảo đảm rằng các nước nghèo có thể tiếp cận dược phẩm để bảo vệ cuộc sống người bệnh nhằm bảo vệ một trong những quyền cơ bản của QCN.
2.2 Nguyên tắc tiếp cận dược phẩm
Bảo hộ quyền tiếp cận dược phẩm là một lĩnh vực mới đối với rất nhiều quốc gia trên thế giới. Trong nhiều năm, sáng chế trong lĩnh vực dược phẩm không được bảo hộ tại nhiều quốc gia. Điều này xuất phát từ ý nghĩa xã hội quan trọng của dược phẩm và sự tin tưởng rằng bảo hộ quyền tiếp cận dược phẩm sẽ dẫn đến sự lạm dụng độc quyền của chủ sở hữu sáng chế. Vào thời điểm đàm phán thành lập WTO năm 1986, 49 trong tổng số 98 thành viên của Công ước Paris chưa bảo hộ sáng chế được phẩm. Ngay tại các quốc gia phát triển, thì việc bảo hộ sáng chế đối với dược phẩm cũng chỉ mới bắt đầu trong những năm cuối của thế kỷ XX, ví dụ: Pháp (từ năm 1960), Thụy Sĩ (từ năm 1977), Nhật Bản (từ năm 1976), Italy, Thụy Điển (từ năm 1978), Tây Ban Nha, Hy Lạp và Na Uy (từ năm 1992). Trong quá trình đàm phán hiệp định TRIPs, một số quốc gia đang phát triển không ủng hộ việc bảo hộ quyền tiếp cận dược phẩm nhưng đã không thành công khi Điều 27 Hiệp định TRIPs yêu cầu các quốc gia thành. Tiếp cận dược phẩm dưới góc độ nhân quyền: tiếp cận dược phẩm, dược phẩm thiết yếu là yếu tố của quyền được chăm sóc sức khỏe, quyền sống của con người; quyền tiếp cận dược phẩm theo tập quán quốc tế; trách nhiệm của các công ty dược phẩm trong việc bảo vệ quyền con người.
2.3 Chính sách và cơ sở pháp lý về quyền tiếp cận dược phẩm
Thực tế cho thấy, có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận dược phẩm con người như giá dược phẩm, khả năng của ngành công nghiệp dược, nguồn nhân lực liên quan, khoảng cách địa lý, việc mua sắm (đấu thầu) dược phẩm, hệ thống bảo hiểm y tế,… Trong đó, giá của dược phẩm được xem là yếu tố tác động mạnh mẽ đến khả năng tiếp cận dược phẩm đối với những người nghèo trong xã hội.Bởi vì hiện nay, dược phẩm đã được tư nhân hoá, các công ty, tập đoàn đa quốc gia xem công nghiệp dược phẩm là ngành hái ra tiền. Họ đầu tư chi phí rất lớn để nghiên cứu, sản xuất dược phẩm và xem nó như một hàng hoá thông thường.Do đó, lợi nhuận là yếu tố hàng đầu họ quan tâm.Đây là lí do giá dược phẩm được xem là gánh nặng của ngưòi nghèo và ngược lại là lợi ích kinh tế của các nhà sản xuất.
Với ý nghĩa tích cực của mình, Hiệp định TRIPS về các khía cạnh thương mại liên quan đến sở hữu trí tuệ là khuyến khích, tôn trọng, bảo hộ các phát minh, do đó làm cho thị trường dược phẩm phong phú, có chất lượng hơn. Nhưng điều này lại tạo ra quá nhiều rào cản, khiến cho những bệnh nhân ở các nước đang phát triển, nước nghèo khó tiếp cận được thuốc tốt. Một ví dụ, năm 2007 Thái Lan có 300.000 người bệnh tim mạch, nhưng chỉ 10% tiếp cận với thuốc Plavix (clopidogrel) do Bristol-Myers Squibb giữ bản quyền và có giá quá cao.
Trước thực trạng đó, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đã thông qua Tuyên bố Doha về Hiệp định TRIPS (về bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ) trong lĩnh vực y tế nhằm ưu tiên hơn trong việc chăm sóc, bảo đảm sức khỏe cộng đồng. Điều này có nghĩa các nước được phép phá vỡ đặc quyền sản xuất trong những trường hợp cấp thiết.
Trước đây, để đảm bảo tính cân bằng này, luật thương mại quốc tế cho phép nước nghèo cấp “giấy phép bắt buộc” cho hãng sản xuất thuốc gốc trong nước, sản xuất ra thuốc có bản quyền với giá rẻ mà không cần có sự đồng ý của người giữ bản quyền. Nhưng do các nước nghèo không có khả năng tự sản xuất nên họ chẳng được lợi ích gì. Giờ đây, các hiệp định mới do Hội đồng TRIPS (Trade-Related Aspects of Intellectual Property) thuộc Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) phê chuẩn sẽ giúp các nước nghèo tự sản xuất thuốc và việc miễn thuế cho các nước kém phát triển nhất sẽ có hiệu lực đến năm 2016.
3. Mối quan hệ giữa bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ và quyền tiếp cận dược phẩm
3.1 Quyền sở hữu trí tuệ và quyền còn người
Mối tương quan giữa quyền Sở hữu trí tuệ và QCN có thể được giải thích theo ba quan điểm khác nhau. Đó là: (i) quyền Sở hữu trí tuệ chỉ là quyền pháp lý đơn thuần, không liên quan đến QCN, (ii) quyền Sở hữu trí tuệ là QCN; và (iii) quyền Sở hữu trí tuệ (hay ít nhất là một số khía cạnh của quyền Sở hữu trí tuệ) mâu thuẫn với QCN.
Trong lịch sử nhân loại trước thế kỷ XVII, đã hình thành hai quan điểm chủ yếu, khác nhau về quyền con người.
Học thuyết Mác – Lênin xem xét con người với tư cách là sản phẩm của tự nhiên và xã hội. Con người là một thực thể tự nhiên nhưng là một thực thể tự nhiên con người trong cộng đồng xã hội. Trong cái tự nhiên của con người có mặt xã hội và trong cái xã hội của con người có mặt tự nhiên. Do đó, Quyền con người là sự thống nhất biện chứng giữa “quyền tự nhiên” (như một đặc quyền vốn có và chỉ con người mới có) và “quyền xã hội” – sự chế định bằng các quy chế pháp lý nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội.
Có một định nghĩa khác về quyền con người thường được nhắc đến, theo đó, “quyền con người là những sự được phép (entitlements) mà tất cả thành viên của cộng đồng nhân loại, không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội… đều có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vì họ là con người”. Trong khi đó, tại Việt Nam, đã có những định nghĩa về quyền con người do một số cơ quan nghiên cứu và các chuyên gia từng nêu ra. Theo PGS.TS Nguyễn Đăng Dung cho rằng: Quyền con người: Đó là những quyền cơ bản nhất của con người, được có một cách tự nhiên gắn bó mật thiết với con người – một động vật cao cấp có lý trí, và có tình cảm làm cho con người khác với các động vật khác, mà nhà nước thành lập với một trong những nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của mình là phải bảo vệ những quyền đó [40]. Còn đối với TS Trần Quang Tiệp ông lại đưa ra một định nghĩa ngắn gọn, khá đầy đủ và cụ thể về quyền con người như sau: “Quyền con người là những đặc lợi vốn có tự nhiên mà chỉ có con người mới được hưởng trong những điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định”. Như vậy, tùy mỗi cách tiếp cận, nghiên cứu khác nhau thì khái niệm quyền con người được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau nhằm đảm bảo cho việc thực thi quyền con người tại mỗi một quốc gia trên thế giới hiện nay.
Trước đây, quyền Sở hữu trí tuệ và QCN được nghiên cứu và phát triển độc lập. Dưới góc độ kinh tế, quyền Sở hữu trí tuệ được xem là phần thưởng hay động lực cho hoạt động phát minh – sáng tạo. “Đây là quyền do nhà nước thông qua pháp luật xác lập, trao cho chủ sở hữu quyền, qua đó có thể ngăn cấm người khác sử dụng các đối tượng được bảo hộ (quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp…), tức quyền phủ định (negative rights). Quyền Sở hữu trí tuệ chỉ được bảo hộ trong một phạm vi và thời hạn nhất định; nó có thể bị hủy bỏ, chuyển giao hay chuyển nhượng cho người khác. Trong khi đó, QCN thường gắn với giá trị và nhân phẩm của con người, do tạo hóa trao cho họ từ lúc sinh ra và gắn liền với chính họ. Vì vậy, quyền Sở hữu trí tuệ từng được cho là độc lập với QCN. Tuy nhiên, quan điểm này không chính xác. Chính trong tuyên bố năm 1986 của các quốc gia thành viên của Liên minh Berne về bảo vệ tác phẩm văn học và nghệ thuật đã chính thức khẳng định quyền tác giả được xác lập trên cơ sở QCN và công lý”[15].
Đối với quan điểm thứ hai cho rằng, quyền Sở hữu trí tuệ là QCN, quan điểm này phát sinh từ việc thừa nhận các phát minh – sáng tạo của con người là những tài sản vô hình. Trong khi đó, quyền đối với tài sản là một trong những quyền cơ bản của con người. Tòa án về QCN của châu Âu (ECHR) trong nhiều phán quyết của mình cũng đã thừa nhận rằng, tài sản trí tuệ phải được bảo vệ theo chế độ sở hữu tài sản như tài sản hữu hình theo Công ước của châu Âu về bảo vệ QCN và các quyền tự do cơ bản6. Khoản 2 Điều 17 Hiến chương về các quyền cơ bản của Liên minh châu Âu (EU) ghi rõ rằng, quyền Sở hữu trí tuệ phải được bảo hộ7. Hiệp định về các khía cạnh thương mại của quyền Sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPS) của WTO trong Phần mở đầu cũng ghi nhận quyền Sở hữu trí tuệ là quyền cá nhân (private rights).
“Bên cạnh khía cạnh quyền tài sản – tức khía cạnh kinh tế, quyền Sở hữu trí tuệ còn được xem xét dưới khía cạnh quyền tự do về văn hóa, tham gia hoạt động khoa học, nghệ thuật của con người. Điều 17 Tuyên ngôn về QCN năm 1948 khẳng định, mỗi người đều có quyền sở hữu tài sản và không ai có thể bị tước đoạt một cách bất hợp lý tài sản thuộc sở hữu của mình. Ngoài ra, Điều 27 của Tuyên ngôn này nhấn mạnh rằng, các lợi ích tinh thần và vật chất có được từ các hoạt động khoa học, văn học, nghệ thuật của mỗi người phải được bảo vệ. Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 cũng có các quy định tương tự. Điều 15(1) của Công ước này ghi rõ, mỗi người có quyền: (i) tham gia các hoạt động văn hóa, sáng tạo, (ii) hưởng các thành tựu khoa học, và (iii) được bảo vệ đối với các lợi ích vật chất và tinh thần phát sinh từ sản phẩm văn hóa, nghệ thuật hay khoa học mà người đó là tác giả. Khi bình luận về Điều 15(1) này, Ủy ban các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (CESCR) của Liên hiệp quốc (LHQ) khẳng định, quyền được bảo hộ các lợi ích tinh thần và vật chất phát sinh từ hoạt động trí tuệ là một QCN, phát sinh từ giá trị và nhân phẩm của con người nói chung”[16].
“Như vậy, hai khía cạnh quyền tài sản (kinh tế) và quyền văn hóa gắn với quyền Sở hữu trí tuệ phản ánh giá trị nội tại của quyền Sở hữu trí tuệ, thể hiện giá trị nhân phẩm, sự tự do và sự sáng tạo của con người. Do đó, quyền Sở hữu trí tuệ tất yếu là phần không thể thiếu của QCN. Tuy nhiên, một khi quyền Sở hữu trí tuệ được xác lập và bảo hộ theo pháp luật Sở hữu trí tuệ, không ai ngoài chủ sở hữu quyền Sở hữu trí tuệ có thể sử dụng và khai thác các đối tượng Sở hữu trí tuệ trong phạm vi và thời hạn bảo hộ nếu không có sự cho phép của chủ sở hữu đó. Ở một góc độ nhất định, điều này cản trở con người nói chung tiếp cận các thành tựu của khoa học, kỹ thuật, văn học và nghệ thuật. Điều đó có nghĩa việc bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ dẫn đến các hậu quả về mặt văn hóa, xã hội và kinh tế có thể ảnh hưởng đến việc bảo vệ và thụ hưởng các QCN”. “Điều đó làm phát sinh quan điểm thứ ba cho rằng, quyền Sở hữu trí tuệ, hay ít nhất một số khía cạnh của quyền Sở hữu trí tuệ, mâu thuẫn với QCN. Nhiều lập luận phản đối việc bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ cho rằng, quyền Sở hữu trí tuệ thực chất là quyền độc quyền trí tuệ hay tri thức (intellectual monopoly), nó cản trở (thay vì khuyến khích, thúc đẩy) hoạt động phát minh – sáng tạo, đe dọa tự do và thịnh vượng của nhân loại”.
XEM THÊM : Luận Văn Thạc Sĩ Về Quyền Công Dân
Việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệvà bảo vệ quyền con người được thể hiện ở các khía cạnh sau: “Thứ nhất, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là cách thức bảo vệ các quyền cơ bản của con người một cách hiệu quả. Điều này được thể hiện qua hai phương diện, cụ thể: (i) việc pháp luật thừa nhận quyền sở hữu cho tác giả, chủ sở hữu các đối tượng sở hữu trí tuệ và bảo vệ quyền này bằng cơ chế thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Pháp luật sở hữu trí tuệ công nhận chủ thể sáng tạo là chủ sở hữu đối với các sản phẩm sáng tạo của mình, từ đó cho phép chủ sở hữu tài sản trí tuệ được thực hiện đầy đủ quyền năng sở hữu của mình, bao gồm quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt. Việc công nhận và bảo vệ quyền sở hữu đối với tài sản trí tuệ là cách thức bảo đảm cho quyền sở hữu của con người được thực thi một cách hiệu quả và đầy đủ nhất; (ii) bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là cách thức để bảo vệ một trong những quyền cơ bản của con người “quyền được bảo hộ các quyền lợi tinh thần và vật chất phát sinh từ hoạt động sáng tạo khoa học, văn học nghệ thuật của chính mình”. Pháp luật sở hữu trí tuệ góp phần đảm bảo thực hiện trên thực tế: quyền được tự do nghiên cứu, sáng tạo và quyền được hưởng các lợi ích của tiến bộ khoa học và các ứng dụng của nó. Việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ hiệu quả bên cạnh việc mang lại lợi ích và quyền lợi cho chủ thể sáng tạo, chủ sở hữu quyền, còn có ý nghĩa rất lớn đối với toàn xã hội, đó là thúc đẩy hoạt động sáng tạo, nghiên cứu diễn ra tích cực hơn”.
“Thứ hai, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cũng làm phát sinh những thách thức nhất định đối với việc bảo vệ quyền con người. Việc thừa nhận và bảo hộ các quyền mang tính độc quyền cho chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ có thể dẫn đến tình trạng lạm dụng độc quyền từ các chủ thể này. Ngoài ra, bảo hộ quá mức các quyền mang tính độc quyền đối với tác phẩm cũng có những tác động tiêu cực nhất định đến quyền tiếp cận các tri thức của nhân loại, các lợi ích của tiến bộ của khoa học. Nếu không có những giải pháp thích hợp thì điều này có thể gây ảnh hưởng đến hoạt động học tập và nghiên cứu do khó khăn về tham khảo các nguồn tài liệu, tiếp cận tri thức của nhân loại, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển, nơi mà nguồn tài chính đầu tư cho hoạt động giáo dục còn chưa cao”.
Pháp luật về bảo đảm quyền con người thông qua chế định về quyền sở hữu trí tuệ. Tư tưởng về quyền con người đã được hình thành từ thời tiền sử, tuy nhiên, được thừa nhận trên bình diện quốc tế thì quyền con người được thể hiện rõ nhất lần đầu tiên là trong tuyên bố sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai trong Tuyên ngôn của Liên hợp quốc về quyền con người năm 1948 và sau đó là Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị năm 1966 (ICCPR) và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội năm 1966 (ICESCR), v.v. Đến Tuyên bố năm 1986 của các quốc gia thành viên của Liên minh Berne về bảo vệ tác phẩm văn học và nghệ thuật đã chính thức khẳng định quyền tác giả được xác lập trên cơ sở quyền con người và công lý. Bên cạnh đó, khi bình luận về Điều 15(1) Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966, Ủy ban các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa của Liên hợp quốc khẳng định, quyền được bảo hộ các lợi ích tinh thần và vật chất phát sinh từ hoạt động trí tuệ là một quyền con người, phát sinh từ giá trị và nhân phẩm của con người nói chung. Do đó, có thể thấy, quyền sở hữu trí tuệ là một tất yếu không thể thiếu của quyền con người.
Nhưng cần phải thấy rằng, “QCN là tập hợp các quyền cơ bản, chung, gắn với từng cá nhân và trong một số trường hợp với cả pháp nhân và nhóm cộng đồng. Quyền Sở hữu trí tuệ là chỉ một bộ phận cấu thành QCN. Trong mối tương quan với các quyền khác thuộc QCN, quyền Sở hữu trí tuệ có thể mâu thuẫn với các quyền đó, cụ thể là quyền tiếp cận dược phẩm. Vấn đề quan trọng là cân bằng giữa các quyền này với nhau trong tổng thể các QCN. Chính vì vậy, Hiệp định TRIPS đã xác định việc bảo hộ và thực thi quyền Sở hữu trí tuệ phải đóng góp cho việc thúc đẩy phát minh – sáng tạo kỹ thuật cũng như chuyển giao và phổ biến công nghệ, đảm bảo lợi ích hài hòa giữa người phát minh – sáng tạo và người sử dụng đối tượng Sở hữu trí tuệ, qua đó đẩy mạnh lợi ích kinh tế, xã hội của việc bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ”.
3.2 Quyền con người và quyền tiếp cận dược phẩm
Quyền tiếp cận dược phẩm nói riêng hay quyền về sức khỏe nói chung là một bộ phận không thể thiếu của Quyền con người. Có nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến việc tiếp cận dược phẩm như giá dược phẩm, khả năng của ngành công nghiệp dược, nguồn nhân lực liên quan, khoảng cách địa lý, việc mua sắm (đấu thầu) dược phẩm, hệ thống bảo hiểm y tế…; trong đó, giá dược phẩm là cản trở lớn nhất đối với quyền tiếp cận dược phẩm, đặc biệt đối với người nghèo.
“Chi phí cho dược phẩm chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng chi phí bảo vệ và chăm sóc sức khỏe. Nếu người bệnh không được sử dụng dược phẩm đúng, đầy đủ và hợp lý, việc bảo vệ và chăm sóc sức khỏe của họ sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Vì vậy, quyền tiếp cận dược phẩm là bộ phận cấu thành cơ bản, không thể thiếu của quyền được bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nói chung. Trong khi đó, quyền về sức khỏe nói chung được thừa nhận rộng rãi là một trong những quyền cơ bản của con người. Tuyên ngôn về QCN năm 1948 (khoản 1 Điều 25) xác nhận mọi người đều có quyền được hưởng mức sống đủ để đảm bảo sức khoẻ và phúc lợi của bản thân và gia đình, trong đó có ăn, mặc, ở, chăm sóc y tế; quyền được bảo đảm trong trường hợp ốm đau, tàn tật, già yếu. Quyền về sức khỏe này được khẳng định lại trong Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 (Điều 12), theo đó, con người có quyền được hưởng điều kiện tốt nhất có thể về sức khỏe thể chất và tinh thần”.
“Ủy ban các Quyền kinh tế, xã hội và văn hóa của LHQ đã nhấn mạnh rằng, quyền về sức khỏe là một QCN cơ bản, không thể thiếu trong việc thực thi các QCN16. Ủy ban này đã giải thích rằng quyền về sức khỏe không chỉ giới hạn ở quyền về chăm sóc y tế; nó bao hàm hàng loạt các yếu tố kinh tế – xã hội thúc đẩy các điều kiện đảm bảo cho con người có một cuộc sống khỏe mạnh, trong đó, yếu tố tiếp cận dược phẩm đảm bảo chất lượng, số lượng và giá cả hợp lý được đề cao17.
Như vậy, quyền tiếp cận dược phẩm nói riêng hay quyền về sức khỏe nói chung là một bộ phận không thể thiếu của Quyền con người. Có nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến việc tiếp cận dược phẩm như giá dược phẩm, khả năng của ngành công nghiệp dược, nguồn nhân lực liên quan, khoảng cách địa lý, việc mua sắm (đấu thầu) dược phẩm, hệ thống bảo hiểm y tế…; trong đó, giá dược phẩm là cản trở lớn nhất đối với quyền tiếp cận dược phẩm, đặc biệt đối với người nghèo. Hiện nay, khoảng 90% dân số ở các nước đang phát triển phải trả tiền mua dược phẩm từ tiền túi của họ, chi phí cho dược phẩm chỉ đứng sau chi phí cho thực phẩm.
“Các tranh luận ở cả bình diện quốc gia lẫn quốc tế hiện nay về quyền tiếp cận dược phẩm thường xoay quanh các nghi ngờ như: (i) các quy định về thương mại liên quan đến dược phẩm hiện nay chủ yếu phục vụ cho người giàu cũng như nước giàu; (ii) các lợi ích kinh tế đang thống trị các mối quan tâm về y tế; (ii) dược phẩm đang được coi và được đối xử như các hàng hóa thông thường mặc dù nó có vai trò đặc biệt trong phòng và chữa bệnh; (iv) các khía cạnh xã hội đang bị bỏ quên khi quyền Sở hữu trí tuệ (quyền sáng chế) đối với dược phẩm đang được coi trọng hơn quyền về sức khỏe. Hiện nay, hầu hết các sáng chế mới trong lĩnh vực dược phẩm do các công ty dược đa quốc gia có trụ sở chính ở các nước phát triển nắm giữ. Các công ty này thường lập luận rằng, họ phải định giá dược phẩm mới ở mức cao nhằm thu hồi chi phí đầu tư cho nghiên cứu và triển khai. Điều này sẽ ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận các dược phẩm mới này của người bệnh ở các nước đang và kém phát triển. Những người ủng hộ việc tiếp cận dược phẩm ở các nước nghèo thường lập luận rằng, việc định giá độc quyền như vậy vi phạm QCN trong việc tiếp cận dược phẩm, nhất là khi Hiệp định TRIPS (có hiệu lực từ ngày 1/1/1995) bắt buộc các nước đang phát triển phải bảo hộ quyền sáng chế đối với dược phẩm từ 1/1/2005, và các nước kém phát triển (sau khi được gia hạn) phải bảo hộ từ 1/1/2016”.
Vì vậy, pháp luật và các điều ước liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ cần phải phản ánh sự “chia sẻ và nhận thức đúng đắn” của các chủ thể liên quan, nhất là từ các nước phát triển; cần phải bảo đảm rằng các nước nghèo có thể tiếp cận dược phẩm để bảo vệ cuộc sống người bệnh nhằm bảo vệ một trong những quyền cơ bản của QCN.
3.3 Cân bằng giữa quyền sở hữu trí tuệ và quyền tiếp cận dược phẩm
Dưới góc độ của ngành công nghiệp dược phẩm, việc ấn định và thay đổi giá dược phẩm được xem là thuộc quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp, phản ánh quy luật cung cầu của thị trường. Có thể xem rằng quyền Sở hữu trí tuệ, cụ thể là quyền độc quyền về sáng chế liên quan đến dược phẩm mà các công ty dược nắm giữ và quyền tiếp cận dược phẩm của người bệnh đều có cùng xuất phát điểm là QCN. Điều này được ghi nhận trong Tuyên ngôn về Quyền con người năm 1948 và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 của LHQ.
Về cơ bản thì Quyền Sở hữu trí tuệ là động lực quan trọng cho hoạt động nghiên cứu và triển khai, thương mại hóa các sáng tạo trong lĩnh vực dược phẩm, nhằm cung cấp các dược phẩm mới cho phòng chống bệnh tật. Trong khi đó, người bệnh cần phải được sử dụng các dược phẩm mới này với giá hợp lý, có thể chấp nhận được so với thu nhập của họ. Đây là một nghịch lý mà các quốc gia và các tổ chức quốc tế đang phải đối mặt. Vì ảnh hưởng của nó đến tính mạng, sức khỏe của con người, nên quyền tiếp cận dược phẩm có thể được xem như là ngoại lệ của quyền Sở hữu trí tuệ, tức quyền Sở hữu trí tuệ có những giới hạn và ngoại lệ nhất định nhằm phục vụ lợi ích chung, bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Do đó, Hiệp định TRIPS cũng như Tuyên bố Doha về Hiệp định TRIPS và sức khỏe cộng đồng năm 2001 đã khẳng định, các thành viên của WTO có thể áp dụng các biện pháp cần thiết nhằm hạn chế quyền Sở hữu trí tuệ để bảo vệ sức khỏe cộng đồng, thúc đẩy việc tiếp cận dược phẩm cho người dân28. Tuy nhiên, việc cân bằng hợp lý hai quyền này, tức việc xác định một cách phù hợp sự can thiệp của quyền tiếp cận dược phẩm đối với quyền Sở hữu trí tuệ, không phải là điều dễ dàng về mặt lý thuyết cũng như trong thực tiễn.
Các văn bản pháp lý quốc tế về QCN như Tuyên ngôn về QCN năm 1948 và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 không đề cập cụ thể đến việc cân bằng hợp lý các QCN khi giữa các quyền này có mâu thuẫn với nhau. Tuy nhiên, trong một chừng mực nhất định, việc cân bằng này được quy định tại khoản 1 Điều 52 Hiến chương về các quyền cơ bản của Liên minh châu Âu (EUCFR). Theo đó, bất kỳ giới hạn (limitation/exception) nào đối với các quyền và sự tự do phải được quy định trong pháp luật và phải tôn trọng bản chất của các quyền và sự tự do đó; giới hạn như vậy phải tuân thủ nguyên tắc cân bằng – hợp lý (proportionality), chỉ có thể áp dụng khi giới hạn đó cần thiết và thực sự đáp ứng các mục tiêu của lợi ích chung được thừa nhận hay bảo vệ các quyền và sự tự do của người khác.
Trong phán quyết Volker vào cuối năm 2010, Tòa án Tư pháp của Liên minh châu Âu (CJEU) lần đầu tiên viện dẫn khoản 1 Điều 52 EUCFR để cân bằng hai quyền cơ bản của con người khi chúng có sự mâu thuẫn. Tòa án đã đưa ra một quy trình kiểm tra gồm ba bước để xác định việc can thiệp hay giới hạn một QCN (cụ thể là quyền được bảo vệ thông tin cá nhân) trên cơ sở một QCN khác (quyền được cung cấp thông tin về hoạt động của cơ quan nhà nước hay nguyên tắc minh bạch). Đó là: (i) việc can thiệp như vậy có được pháp luật quy định hay không, (ii) việc can thiệp đó có đáp ứng các mục tiêu lợi ích chung hay không, và (iii) việc can thiệp đó có cân bằng hợp lý hay không. Về nguyên tắc cân bằng – hợp lý, trong vụ việc này, Tòa án nhấn mạnh đến tính phù hợp (suitability) và cần thiết (necessity). Tính phù hợp đòi hỏi việc can thiệp (giới hạn) phải phù hợp nhằm đạt được mục tiêu; tính cần thiết xác định xem việc can thiệp đó là có cần thiết nhằm đạt được mục tiêu hướng đến hay không, tức có tồn tại hay không một biện pháp ít hạn chế hơn nhưng vẫn có khả năng đạt được mục tiêu đề ra.
Như vậy về nguyên tắc, việc cân bằng hợp lý quyền Sở hữu trí tuệ và quyền tiếp cận dược phẩm, tức xác định một cách phù hợp các giới hạn (ngoại lệ) của quyền Sở hữu trí tuệ nhằm đảm bảo quyền tiếp cận dược phẩm, bảo vệ sức khỏe cộng đồng phải tuân thủ quy trình kiểm tra ba bước nêu trên. Quy trình kiểm tra ba bước đó trong một chừng mực nhất định đã được cụ thể hóa qua các quy định linh hoạt (flexibilities) trong Hiệp định TRIPS, Tuyên bố Doha31 về Hiệp định TRIPS và sức khỏe cộng đồng, Quyết định của Đại hội đồng WTO về thực thi đoạn 6 của Tuyên bố Doha và sửa đổi Hiệp định TRIPS (bổ sung Điều 31bis).
Thứ nhất, Điều 30 Hiệp định TRIPS quy định, các thành viên WTO có thể quy định các hành vi sử dụng sáng chế nếu đáp ứng được cả ba điều kiện sau thì không bị coi là vi phạm quyền của chủ sở hữu sáng chế. Ngoại lệ này cho phép các công ty dược không nắm giữ sáng chế sau đó có thể sản xuất và đưa dược phẩm generic ra thị trường ngay sau khi sáng chế hết thời hạn bảo hộ để cạnh tranh với công ty dược đã từng độc quyền sử dụng sáng chế đó. Điều này sẽ giúp giảm giá dược phẩm, giúp người bệnh tiếp cận nhanh chóng dược phẩm cần thiết.
Thứ hai, Điều 31 Hiệp định TRIPS quy định về bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế mà không giới hạn cơ sở để cơ quan có thẩm quyền của các thành viên WTO căn cứ ra các quyết định bắt buộc chuyển giao này. Tuyên bố Doha khẳng định, các thành viên WTO có quyền ra quyết định bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế và được quyền tự do xác định các căn cứ để ban hành các quyết định đó. Nhiều nước, kể cả các nước phát triển, đã thành công trong việc sử dụng hay đe dọa sử dụng chế định pháp luật về bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế với lý do bảo vệ sức khỏe cộng đồng nhằm giảm giá dược phẩm, tăng cơ hội tiếp cận biệt dược trong điều trị HIV/AIDS, ung thư… Thái Lan trong hai năm 2007-2008 đã liên tiếp áp dụng chế định này và nhận được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức hoạt động vì QCN.
Tuy nhiên, các điều kiện để áp dụng bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế nêu trên vẫn bị cho là có nhiều thiếu sót, không rõ ràng khiến việc ban hành các quyết định bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế trên thực tế gặp nhiều trở ngại, nhất là điều kiện cung cấp chủ yếu cho thị trường nội địa theo quy định tại điểm f Điều 31.
Thứ ba, Điều 6 Hiệp định TRIPS trao cho các thành viên WTO quyền tự quyết định trong pháp luật quốc gia về chế độ hết quyền đối với quyền Sở hữu trí tuệ. Tùy thuộc vào cách quy định trong pháp luật, chủ sở hữu quyền Sở hữu trí tuệ sẽ hết quyền khi sản phẩm chứa đựng quyền Sở hữu trí tuệ đó được (i) bán lần đầu tiên với (ii) sự cho phép của chủ sở hữu này trên thị trường trong nước, khu vực hay quốc tế. Mặc dù khoản 1 Điều 28 Hiệp định TRIPS quy định chủ sở hữu sáng chế có quyền ngăn cấm việc nhập khẩu sản phẩm chứa đựng sáng chế, nó có chú thích rằng quyền nhập khẩu này phụ thuộc vào quy định hết quyền của pháp luật quốc gia. Nếu các nước đang và kém phát triển lựa chọn việc hết quyền quốc tế, dược phẩm bán với giá thấp ở nước ngoài sẽ được phép nhập khẩu để góp phần giảm giá dược phẩm trong nước.
Như vậy, Hiệp định TRIPS đã có các quy định linh hoạt thúc đẩy việc tiếp cận dược phẩm, mặc dù còn nhiều ý kiến cho rằng Hiệp định TRIPS có thể hạn chế QCN song về cơ bản đã đáp ứng với yêu cầu xây dựng và phát triển của bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ đối với dược phẩm
Có thể thấy rằng để thiết lập nên sự cân bằng, hợp lý giữa Quyền sở hữu trí tuệ và Quyền con người là một vấn đề không dễ giải quyết. Mặt dù hiệp định Trips và Tuyên bố Doha đã đưa ra nhiều quy định để đảm bảo cho sự cân bằng này có thể được duy trì, ở một mức độ nhất định, đã tạo nên tính linh hoạt hơn trong việc thúc đẩy quyền tiếp cận dược phẩm, song giữa lý thuyết và việc thực thi nó vào trong thực tiễn không phải là một điều dễ dàng, dường như những rào cản về dược phẩm đối với những nước nghèo, kém phát triển vẫn chưa thể đi đến hồi kết.
Nghiên cứu bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ đối với dược phẩm thì tác giả có thể rút ra được một số kết luận sau:
Một là, các quy định về bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ đối với dược phẩm được ghi nhận tại các quy định trong và ngoài nước. Trên cơ sở kế thừa và phát triển các quy định trên đã điều chỉnh mối quan hệ phát sinh trong quá trình bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ đối với dược phẩm nhằm đảm bảo các nguyên tắc của pháp luật đối với hoạt động hiện nay. Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ đối với dược phẩm ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Qua đó, khẳng định một lần nữa vai trò quan trọng của các cơ quan nhà nước trong quản lý nhà nước về bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ đối với dược phẩm ở nước ta trong giai đoạn xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Hai là, Bên cạnh những kết quả đạt được thì những hạn chế của quy định này đã tạo ra những rào cản, trở ngại về mặt pháp lý làm giảm hiệu lực, hiệu quả trong quá trình giải quyết việc bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ đối với dược phẩm trên thực tế. Do đó, việc hoàn thiện những quy định về quyền khởi kiện về bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ đối với dược phẩm là một nội dung quan trọng trong pháp luật Sở hữu trí tuệ ở nước ta, đáp ứng với việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật Sở hữu trí tuệ ở nước ta trong tình hình hiện nay.
[1] Nguyễn Thanh Tâm, 2006, Quyền sở hữu công nghiệp trong hoạt động thương mại, NXB Tƣ pháp
[2] Lê Thị Nam Giang (2013), “Cân bằng lợi ích của xã hội và lợi ích của chủ sở hữu trong bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế”, Tạp chí Khoa học pháp lý
[3] Cục Sở hữu trí tuệ (2007), Hội thảo khoa học về “Bảo hộ sáng chế về dược phẩm và bảo vệ dữ liệu thử nghiệm”, phối hợp với Viện Sở hữu trí tuệ Thụy Sỹ tổ chức tại Hà Nội ngày 06/8/2007
[4] https://luatminhkhue.vn/so-huu-tri-tue-la-gi-.aspx
[5] https://luatminhkhue.vn/so-huu-tri-tue-la-gi-.aspx
[6] https://dangcongsan.vn/kinh-te/van-de-so-huu-trong-nen-kinh-te-qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-o-nuoc-ta-567463.html
[7] https://dangcongsan.vn/kinh-te/van-de-so-huu-trong-nen-kinh-te-qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-o-nuoc-ta-567463.html
[8] https://dangcongsan.vn/kinh-te/van-de-so-huu-trong-nen-kinh-te-qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-o-nuoc-ta-567463.html
[9] https://dangcongsan.vn/kinh-te/van-de-so-huu-trong-nen-kinh-te-qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-o-nuoc-ta-567463.html
[10] https://dangcongsan.vn/kinh-te/van-de-so-huu-trong-nen-kinh-te-qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-o-nuoc-ta-567463.html
[11] https://dangcongsan.vn/kinh-te/van-de-so-huu-trong-nen-kinh-te-qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-o-nuoc-ta-567463.html
[12] UN CESCR, “General Comment No. 14 (2000): The right to the highest attainable standard of health (Article 12 of the International Covenant on Economic, Social and Cultural Rights)”, E/C.12/2000/4, 11/8/2000, đoạn 1
[13] https://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/81/435
[14] https://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/81/435
[15] Xem Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1791 của Pháp, Tuyên ngôn độc lập năm 1945 của Việt Nam.
[16] http://luatsuquangthai.vn/mot-so-quy-dinh-cua-nham-thiet-lap-su-can-bang-giua-quyen-so-huu-tri-tue-va-quyen-tiep-can-duoc-pham-32-a8id
Bài viết Cơ Sở Lý Luận Về Quyền Tiếp Cận Dược Phẩm Làm Luận Văn sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho các bạn, giúp các bạn bỗ xung kiến thức khi làm bài luận văn tốt nghiệp với đề tài Về Quyền Tiếp Cận Dược Phẩm . Tuy nhiên nếu vì lý do nào đó các bạn không thể hoàn thành bài làm của mình thì các bạn hãy liên hệ với Luận Văn Tốt qua holine Zalo/tele : 0934573149 để được tư vấn và hỗ trợ. Chúc các bạn thành công.