Mục lục
Có phải bạn đang tìm tài liệu Cơ Sở Lý Luận Về Tranh Chấp Hợp Đồng Mua Bán Hàng Hóa để làm bài luận văn thạc sĩ với đề tài Về Tranh Chấp Hợp Đồng Mua Bán Hàng Hóa. Trong giai đoạn kinh tế phát triển mạnh mẽ như hiện nay việc tranh chấp về hợp đồng kinh tế đặc biệt là hợp đồng mua bán diễn ra ngày càng nhiều, đó cũng là lý do mà trên được nhiều bạn năm cuối chọn làm đề tài cho bài tốt nghiệp của mình. Nếu bạn cũng đang trong giai đoạn cần tài liệu tham khảo cho bài luận văn về Tranh Chấp Hợp Đồng Mua Bán Hàng Hóa thì mời bạn theo dõi bài viết dưới đây.
Nếu trong quá trình làm bài các bạn cần thêm tài liệu tham khảo hoặc tư vấn về bài làm thì vui lòng liên hệ sđt/zalo/tele : 0934573149 hoặc dịch vụ viết luận văn thạc sĩ của Luận Văn Tốt để được cung cấp tài liệu tham khảo miễn phí và hỗ trợ các bạn làm bài.
1. Khái niệm tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa
Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa là những mâu thuẫn, bất đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia trong hợp đồng mà chủ yếu là liên quan đến việc thực hiện hoặc không thực hiện quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng. Tranh chấp có thể phát sinh từ nội dung của hợp đồng, giải thích hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng, thực hiện hợp đồng, sửa đổi, bổ sung chấm dứt hợp đồng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng…
Vi phạm hợp đồng là căn cứ làm phát sinh tranh chấp giữa các bên. Điều kiện để quy trách nhiệm cho bên vi phạm hợp đồng phải bồi thường thiệt hại cho bên bị vi phạm, hay nói cách khác những điều kiện nào được coi là cần và đủ để quy trách nhiệm bồi thường thiệt hại? Nhìn chung, Công ước Viên năm 1980, pháp luật Việt Nam và pháp luật một số nước trên thế giới đều có những quy định tương đối giống nhau về các căn cứ để quy trách nhiệm cho bên vi phạm hợp đồng. Nếu người bán không thực hiện một nghĩa vụ nào đó của họ được quy định trong hợp đồng, trong Công ước hay trong pháp luật, thì người mua có căn cứ để yêu cầu bồi thường thiệt hại. Ví du, Theo Công ước Viên năm 1980 (Điều 61), nếu người mua không thực hiện một nghĩa vụ nào đó trong hợp đồng hay trong Công ước này thì người bán có căn cứ đòi bồi thường thiệt hại. Như vậy, khi một bên vi phạm bất cứ một nghĩa vụ nào mà gây thiệt hại cho phía bên kia thì phải bồi thường thiệt hại.
Điểm chung của Công ước Viên năm 1980, pháp luật Việt Nam và pháp luật các nước để quy định trách nhiệm của bên vi phạm hợp đồng đối với bên bị vi phạm cần có đủ các điều kiện sau đây:
- Có sự vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa;
- Có sự thiệt hại về tài sản của bên bị vi phạm;
- Có quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại về tài sản;
- Có lỗi của bên vi phạm hợp đồng
2. Đặc điểm tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa
Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa có các đặc điểm sau:
– Có sự vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa.
– Có thiệt hại về tài sản của bên bị vi phạm.
– Có quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại vật chất xảy ra.
– Có lỗi của bên vi phạm.
Ở Việt Nam, việc hòa giải tranh chấp hợp đồng được coi trọng. Các bên phải tự thương lượng, hòa giải với nhau khi phát sinh tranh chấp. Khi thương lượng, hòa giải bất thành, mới đưa ra tòa án hoặc trọng tài giải quyết. Ngay tại tòa án, các bên vẫn có thể tiếp tục hòa giải với nhau. Ở Việt Nam, bình quân mỗi năm, số lượng tranh chấp kinh tế được giải quyết bằng phương thức hòa giải chiếm đến trên dưới 50% tổng số vụ việc mà tòa án đã phải giải quyết
XEM THÊM : Cơ Sở Lý Luận Về Hòa Giải Tranh Chấp Hợp Đồng Thương Mại
3. Ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa
Giải quyết hậu quả kịp thời tranh chấp còn có ý nghĩa cực kỳ quan trong việc quản lý xã hội bằng pháp luật, vừa tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiập, vừa góp phần tạo môi trường pháp lý có kỷ cương.
Thông qua hoạt động giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa của Tòa án, những người tham dự phiên tòa biết rõ hơn các quy định của pháp luật được Tòa án áp dụng giải quyết vụ án từ đó nâng cao được ý thức pháp luật của họ.
Hoạt động của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa là để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan xét xử, thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Nếu hoạt động này được tiến hành tốt sẽ làm tăng thêm tác dụng của công tác giáo dục chính trị, giáo dục pháp luật. Ngược lại, nếu phiên tòa sơ thẩm tiến hành không tốt, có nhiều sai sót thì kết quả của công tác giáo dục sẽ bị hạn chế, gây ảnh hưởng xấu, làm cho mọi người thiếu tin tưởng vào hoạt động xét xử của Tòa án.
4. Quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa theo thủ tục sơ thẩm tại Tòa án ở Việt Nam
4.1. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa tại Tòa án nhân dân
Cũng như việc giải quyết các loại tranh chấp khác, việc giải quyết các tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa tại Tòa án nhân dân tuân theo các nguyên tắc của Hiến pháp và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân. Cụ thể, các nguyên tắc chung là: nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, nguyên tắc xét xử công khai, xét xử tập thể và quyết định theo đa số, Tòa án đảm bảo cho nhân dân được dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc nước mình trước tòa…; Đối việc việc giải quyết các tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa thì ngoài các nguyên tắc trên thì các nguyên tắc được xem là đặc thù là:
– Nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự.
Nguyên tắc này nhằm đảm bảo quyền tự do kinh doanh, tự do hợp đồng của chủ thể kinh doanh, Nhà nước không can thiệp vào những hoạt động kinh doanh đúng pháp luật, Tòa án chỉ giải quyết khi đương sự có yêu cầu và có đơn khởi kiện tại Tòa án hoặc trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Khi tranh chấp xảy ra, đương sự có quyền tự quyết định việc khởi kiện, chủ động đề xuất các yêu cầu, phạm vi, mức độ và lợi ích cần được bảo vệ. Ngay cả khi đã đưa vụ án tranh chấp ra giải quyết, các bên vẫn có quyền thay đổi nội dung yêu cầu, tự hòa giải hoặc rút đơn khởi kiện. Các đương sự có quyền cho luật sư hoặc ủy quyền cho người khác tham gia tố tụng theo đúng quy định của pháp luật mà không cần thiết phải trực tiếp tham gia tố tụng.
– Nguyên tắc Tòa án có trách nhiệm hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án theo quy định của bộ luật tố tụng dân sự.
Hòa giải là biện pháp được ưu tiên áp dụng trước khi các bên tranh chấp phải nhờ tới cơ quan có thẩm quyền tài phán. Nguyên tắc này được xây dựng trước tiên là do yêu cầu của chính doanh nghiệp. Chỉ khi không thể hòa giải được, các chủ thể mới cần sự can thiệp của Nhà nước. Tuy vậy, ngay khi có yêu cầu của Tòa án giải quyết, các đương sự vẫn có thể tiến hành hòa giải với sự hướng dẫn và công nhận của Tòa án. Khi hòa giải, Tòa án phải tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự trên cơ sở sự tự nguyện của các đương sự.
– Nguyên tắc đương sự có nghĩa vụ chứng minh.
Khi giải quyết các vụ án tranh chấp kinh doanh thương mại nói chung cũng như các tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng, Tòa án chủ yếu căn cứ vào các chứng cứ mà đương sự đưa ra, bên nào yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình thì bên đó có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó của mình là căn cứ và hợp pháp. Các bên có quyền và nghĩa vụ trình bày những gì mà họ cho là cần thiết. Tòa án không bắt buộc phải thu thập thêm chứng cứ mà chỉ tiến hành xác minh, thu thập thêm chứng cứ khi thấy cần thiết theo quy định của bộ luật tố tụng dân sự để đảm bảo việc giải quyết vụ án được chính xác, đảm bảo quyền lợi cho các đương sự.
– Nguyên tắc giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời.
Thời hạn xét xử sơ thẩm của một vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa hiện nay được pháp luật quy định là 2 tháng, trong trường hợp xét thấy cần thiết phải gia hạn thì vụ án được gia hạn thêm không quá 1 tháng. Như vậy, quá trình giải quyết một vụ án tranh chấp mua bán hàng hóa đòi hỏi phải nhanh chóng, kịp thời để đảm bảo quyền lợi cho các bên tranh chấp.
– Nguyên tắc xét xử công khai (trừ trường hợp cần giữ bí mật của Nhà nước, bí mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ).
4.2. Thẩm quyền của Tòa kinh tế Tòa án nhân dân cấp tỉnh trong việc xét xử sơ thẩm các tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa
Thẩm quyền của Tòa án đối với việc giải quyết các vụ án tranh chấp kinh doanh thương mại về hợp đồng mua bán hàng hóa được quy định tại BLTTDS 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Theo đó, Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử các tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại nói chung và tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng. Thẩm quyền theo thủ tục sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh đối với hợp đồng mua bán được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 29, điểm a khoản 1 Điều 34 BLTTDS 2015. Như vậy, Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận, trừ những tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện; những tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa mà đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp của cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài.
- Thẩm quyền theo lãnh thổ được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 BLTTDS 2015, theo đó, thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án khi xét xử tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa là Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền;
Như vậy, thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án đối với các tranh chấp kinh doanh, thương mại nói chung và các tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng theo quy định tại Điều 29 BLTTDS 2015 được xác định trên cơ sở nơi cư trú và làm việc của bị đơn hoặc nơi bị đơn có trụ sở. Ví dụ Công ty A có trụ sở tại Malaysia ký hợp đồng mua bán hàng hóa là 30.000 tấn thép với Công ty B có trụ sở tại thành phố Hà Nội, hai bên thỏa thuận trong hợp đồng khi có tranh chấp xảy ra nếu không thể tự thỏa thuận được thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết là Tòa án nơi bị đơn có trụ sở. Như vậy, khi có tranh chấp xảy ra và nếu Công ty A khởi kiện thì Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh sẽ là Tòa án có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm vụ tranh chấp nêu trên.
- Thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn trong việc giải quyết các tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa được xác định:
Nếu không biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở của bị đơn thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc, có trụ sở cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản giải quyết (theo điểm a khoản 1), nếu tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết (theo điểm g khoản 1), nếu các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở ở nhiều nơi khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi một trong các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở giải quyết (theo điểm h khoản 1).
4.3. Trình tự giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa theo thủ tục sơ thẩm tại Tòa án theo pháp luật Việt Nam
4.3.1. Thủ tục nhận và xử lý đơn khởi kiện
Cơ Sở Lý Luận Về Tranh Chấp Hợp Đồng Mua Bán Hàng Hóa là các tranh chấp giữa các bên chủ thể mà trong đó thường có ít nhất một bên là tổ chức có đăng ký kinh doanh như Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, Doanh nghiệp tư nhân, Công ty hợp danh. Do vậy, khi tiếp nhận đơn khởi kiện của họ, Thư ký Tòa án được phân công cùng với Thẩm phán giải quyết vụ án cần kiểm tra các tài liệu gửi kèm theo đơn của đương sự có đầy đủ hồ sơ pháp nhân hay không. Hồ sơ pháp nhân thường bao gồm:
- Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (Giấy phép kinh doanh). Nếu có thay đổi đăng ký nhiều lần thì phải yêu cầu đương sự cung cấp đầy đủ Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của tất cả các lần thay đổi;
- Điều lệ hoạt động của pháp nhân;
- Nếu các doanh nghiệp kinh doanh các ngành nghề có điều kiện thì phải yêu cầu đương sự cung cấp Giấy phép kinh
Chúng ta biết rằng, các tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa là các tranh chấp về hợp đồng mà các bên đã thiết lập trước đó để tạo ra quan hệ mua bán ràng buộc giữa các bên. Do đó, khi xem xét để thụ lý đơn khởi kiện đối với loại tranh chấp này, Thư ký Tòa án phải kiểm tra và yêu cầu đương sự giao nộp hợp đồng, các phụ lục hợp đồng, các hóa đơn chứng từ (phiếu xuất, nhập, thu, chi) các biên bản đối chiếu, xác nhận công nợ, các biên bản làm việc (nếu có).
Đối với đơn khởi kiện của công ty nước ngoài thì tuân theo quy định sau:
- Giấy tờ, tài liệu do cơ quan có thẩm quyền nước ngoài lập, cấp hoặc xác nhận theo quy định của pháp luật nước ngoài hoặc ở lãnh thổ Việt Nam được pháp luật Việt Nam công nhận nếu giấy tờ, tài liệu đó đã được hợp pháp hóa lãnh sự, trừ trường điều ước Quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác.
- Giấy tờ, tài liệu lập bằng tiếng nước ngoài phải được gửi cho Tòa án Việt Nam theo bản dịch ra tiếng Việt đã được công chứng, chứng thực hợp pháp.
(Nguồn: Bộ luật tố tụng dân sự 2015)
Sau khi nhận đơn khởi kiện cùng các tài liệu, chứng cứ kèm theo, căn cứ vào các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án cấp tỉnh để thông báo cho nguyên đơn nộp tiền tạm ứng án phí để có căn cứ thụ lý vụ án. Về việc tính tiền án phí và tạm ứng án phí cần được thực hiện theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đối với án phí kinh doanh, thương mại. Trong thực tiễn, đối với các tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa thì thông thường người khởi kiện đều ghi rõ số tiền bên bị đơn phải thanh toán nên việc tính tạm ứng án phí thường không gặp nhiều khó khăn. Cũng có nhiều trường hợp đơn khởi kiện chỉ nêu tranh chấp nên Tòa án phải yêu cầu người khởi kiện cung cấp giá và xác định số tiền tranh chấp để làm căn cứ tính tiền tạm ứng án phí. Ngoài ra, Tòa án cũng cần phân biệt những trường hợp không có giá ngạch như yêu cầu tiếp tục thực hiện như hợp đồng, yêu cầu giao hàng trong trường hợp chậm giao hàng mà không có thỏa thuận trước trong hợp đồng về phạt vi phạm hay bồi thường thiệt hại và đương sự không có yêu cầu v.v để có cơ sở tính tạm ứng án phí cho chính xác.
Sau khi đương sự nộp biên lai đã nộp tiền tạm ứng án phí, Thư ký Tòa án vào sổ thụ lý vụ án và làm thông báo thụ lý vụ án gửi đến Viện kiểm sát cùng cấp và thông báo cho bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết để có cơ sở triệu tập họ đến Tòa án để giải quyết vụ án.
4.2.2. Thủ tục hòa giải tại Tòa án
Hòa giải là một thủ tục tố tụng quan trọng trong quá trình giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa tại Tòa án. Nếu như hòa giải ngoài Tòa án là các hòa giải viên thường là những chuyên gia trong lĩnh vực thương mại được các bên đồng ý mời họ để hỗ trợ các bên đàm phán về tranh chấp thì Hòa giải tại Tòa án do Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án thực hiện. Sau khi thụ lý vụ án, lấy lời khai và ý kiến của các bên liên quan đến yêu cầu giải quyết tranh chấp, Thẩm phán triệu tập họ để họ trình bày ý kiến và tiến hành hòa giải. Trong quá trình hòa giải, Thẩm phán cũng đóng vai trò như là một người trung gian ở giữa các bên, không đưa ra quyết định về việc giải quyết cũng như không áp đặt mà để các bên đối thoại, thiết lập các giải pháp và tạo thêm những thỏa thuận mới phù hợp với họ. Trên cơ sở đó, nếu các bên thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án, ví dụ nguyên đơn đồng ý gia hạn thêm cho bị đơn một tháng để phía bị đơn giao hàng đủ thì Thẩm phán ghi nhận sự thỏa thuận của đương sự, lập biên bản hòa giải thành. Biên bản hòa giải thành cần được ghi rõ: “Trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành nếu đương sự nào có thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận thì phải làm thành văn bản gửi cho Tòa án”.
XEM THÊM : Đơn Phương Chấm Dứt Hợp Đồng Lao Động Là Gì? Khái Niệm, Đặc Điểm
Nếu trong khoảng thời gian trên, đương sự trực tiếp đến Tòa án xin thay đổi thỏa thuận thì Thư ký được phân công giúp Thẩm phán giải quyết vụ án đó lập biên bản ghi ý kiến thay đổi để làm căn cứ giải quyết tiếp vụ án. Nếu trong thời hạn trên mà đương sự không có ý kiến về việc thay đổi thỏa thuận thì Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Cần lưu ý là Tòa án chỉ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự khi các bên thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án và cả về phần án phí. Đây được gọi là hòa giải ở giai đoạn tiền xét xử. Ở giai đoạn xét xử, ngay sau thủ tục bắt đầu phiên tòa, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (nếu có) trình bày ý kiến của mình, Chủ tọa phiên tòa sẽ hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay không. Nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án cũng như phần án phí thì Hội đồng xét xử sẽ xem xét để ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự về việc giải quyết vụ án.
- Thủ tục bắt đầu phiên tòa:
Để phiên tòa được tiến hành một cách chặt chẽ và đúng thủ tục, Thư ký phiên tòa phải kiểm tra và báo cáo chính xác cho Hội đồng xét xử về sự có mặt, vắng mặt và lý do vắng mặt của những người được Tòa án triệu tập đến phiên tòa. Đây còn được gọi là phần kiểm tra căn cước những người được Tòa án triệu tập đến phiên tòa.
Khi Hội đồng xét xử bắt đầu phiên tòa, chủ tọa phải kiểm tra lại sự có mặt của những người tham gia phiên tòa theo giấy triệu tập, giấy báo và việc họ đã ngồi vào đúng vị trí đã quy định, thuận lợi cho việc đứng dậy trình bày khi Tòa yêu cầu hay chưa? Đồng thời, phải kiểm tra căn cước của các đương sự.
Một thủ tục không thể thiếu khi bắt đầu phiên tòa là chủ tọa phiên tòa phải phổ biến quyền hạn, nghĩa vụ của các đương sự và những người tham gia tố tụng khác, giới thiệu những người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch xem đương sự có đề nghị thay đổi ai trong số đó không, lý do thay đổi. Trong trường hợp có người xin thay đổi những người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch thì Hội đồng xét xử phải xem xét và quyết định. Trước khi Hội đồng xét xử quyết định thì cần nghe ý kiến của người bị thay đổi, Hội đồng sẽ thảo luận tại phòng nghị án và quyết định theo đa số. Khi Hội đồng thảo luận, nếu thấy yêu cầu xin thay đổi là chính đáng như thuộc các trường hợp quy định tại các Điều 52, 53, 54, 55 BLTTDS 2015 (Những trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng; Thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân; Thay đổi Kiểm sát viên; Thay đổi Thư ký Tòa án) thì Hội đồng xét xử phải chấp nhận. Nếu xét thấy việc xin thay đổi Hội đồng xét xử là không chính đáng thì Hội đồng xét xử không chấp nhận và nêu rõ lý do không chấp nhận. Việc xử lý yêu cầu xin thay đổi người tiến hành tố tụng một cách khách quan, có sơ sở có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo tính khách quan, tạo niềm tin và sự hợp tác của đương sự trong quá trình giải quyết vụ án.
Để đảm bảo tính khách quan trong lời khai của người làm chứng, trong trường hợp chủ tọa phiên tòa nhận thấy nếu để cho những người làm chứng hoặc giữa đương sự và người làm chứng tiếp xúc với nhau hoặc nghe lời khai của nhau sẽ ảnh hưởng đến tính khách quan trong lời khai của họ, thì chủ tọa phiên tòa có thể quyết định cách ly đương sự với người làm chứng; cách ly giữa các nhân chứng trước khi hỏi người làm chứng đó.
- Thủ tục hỏi tại phiên tòa:
+) Xử lý vấn đề thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu khởi kiện:
Khi thấy phiên tòa đủ điều kiện để tiếp tục, thì chủ tọa sẽ hỏi nguyên đơn có thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện không? Hỏi bị đơn có bổ sung, thay đổi, rút một phần hay toàn bộ yêu cầu phản tố hay không? Hỏi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có thay đổi, bổ sung, rút một phần hay toàn bộ yêu cầu độc lập hay không? Nếu đương sự có thay đổi, bổ sung yêu cầu thì Hội đồng xét xử chỉ chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu.
Việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu của đương sự phải được ghi vào biên bản phiên tòa. Trường hợp Hội đồng xét xử chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của đương sự thì cũng đều phải ghi vào bản án. Nếu đương sự có rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình và việc rút yêu cầu của họ là tự nguyện thì Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu mà đương sự đã rút.
Theo quy định tại Điều 244 BLTTDS 2015, trong trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện nhưng bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố thì hội đồng xét xử ra quyết định đình chỉ xét xử đối với toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn đã rút. Hội đồng xét xử khi đó sẽ công bố thay đổi địa vị tố tụng của các đương sự. Bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố trở thành nguyên đơn, nguyên đơn đã rút toàn bộ yêu cầu trở thành bị đơn.Nếu nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện, bị đơn rút toàn bộ yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vẫn giữ nguyên yêu cầu độc lập của mình thì người có quyền lợi,nghĩa vụ liên quan trở thành nguyên đơn,người bị khởi kiện theo yêu cầu độc lập trở thành bị đơn (Điều 245,BLTTDS 2015). Hội đồng xét xử ra quyết định đình chỉ xét xử đối với toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn đã rút. Công bố công khai tại phiên tòa việc thay đổi địa vị tố tụng, theo đó, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập trở thành nguyên đơn và tùy theo mối quan hệ giữa các đương sự liên quan đến yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để xác định ai là bị đơn của vụ án.
Ví dụ: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa giữa nguyên đơn là Công ty A và bị đơn là Công ty B có yêu cầu độc lập đề nghị Tòa án buộc cả nguyên đơn và bị đơn trả nợ tiền hàng cho mình, thì cả nguyên đơn và bị đơn sẽ trở thành bị đơn, còn người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là nguyên đơn. Nhưng nếu như người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập chỉ yêu cầu nguyên đơn trả nợ, không có yêu cầu gì đối với bị đơn thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là nguyên đơn, còn nguyên đơn trở thành bị đơn, bị đơn sẽ trở thành người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
Việc thay đổi địa vị tố tụng như trên phải được ghi vào biên bản phiên tòa và bản án.
+) Vấn đề xử lý việc thỏa thuận của đương sự trước khi chuyển sang phần hỏi các đương sự:
Trước khi chuyển sang phần hỏi, Chủ tọa phiên tòa cần giải thích cho các đương sự biết quy định tại Điều 246 BLTTDS 2015 về việc đương sự có quyền thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, hậu quả của việc Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự thì các đương sự không có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát không được kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự có hiệu lực pháp luật.
Sau khi giải thích về quy định trên, chủ tọa phiên tòa phải hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay không? Nếu có thì hỏi họ có hoàn toàn tự nguyên hay không, có bị ép buộc về các nội dung của thỏa thuận hay không. Sau khi các đương sự thỏa thuận, Hội đồng xét xử xem thỏa thuận đó có trái pháp luật, đạo đức xã hội hay không? Khi thấy thỏa thuận có điểm nào đó chưa rõ ràng, chưa cụ thể sẽ gây khó khăn trong việc thi hành án thì Hội đồng xét xử sẽ giải thích cho đương sự để họ thỏa thuận lại với nhau cho rõ. Nếu sự thỏa thuận đó là hoàn toàn tự nguyện, không xâm phạm đến quyền, lợi ích của người khác, không trái pháp luật, đạo đức xã hội và các nội dung đã rõ ràng thì Hội đồng xét xử ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự về việc giải quyết vụ án.
Theo quy định tại Điều 212 BLTTDS 2015 thì Hội đồng xét xử ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự về việc giải quyết vụ án. Do đó, mọi sự thỏa thuận của các đương sự phải được ghi đầy đủ vào biên bản phiên tòa.
+) Trình tự tiến hành việc xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm.
Theo Điều 248 BLTTDS 2015, nếu các đương sự không tự thỏa thuận được về việc giải quyết vụ án thì Hội đồng xét xử bắt đầu xét xử vụ án bằng việc yêu cầu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày yêu cầu của nguyên đơn và chứng cứ chứng minh cho yêu cầu đó. Nguyên đơn có quyền bổ sung ý kiến. Trường hợp nguyên đơn không có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thì nguyên đơn sẽ trực tiếp trình bày ngay khi Hội đồng xét xử bắt đầu tiến hành việc xét xử. Trường hợp cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án thì đại diện cơ quan, tổ chức trình bày yêu cầu và đưa ra chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Cũng tương tự như vậy, sau khi đại diện của nguyên đơn hoặc nguyên đơn trình bày xong, người đại diện cho quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn (hoặc chính bị đơn), người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (hoặc chính người có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan) trình bày.
Một điều cần lưu ý là tại phiên tòa, đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vẫn có quyền bổ sung chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị của mình. Hội đồng xét xử phải xem xét, đánh giá các chứng cứ mới và các chứng cứ trong hồ sơ để xem xét một cách toàn diện vụ án.
Về thứ tự hỏi tại phiên tòa, sau khi nghe lời trình bày của đương sự, việc hỏi từng người về từng vấn đề được thực hiện theo thứ tự như sau: Chủ tọa phiên tòa hỏi trước, đến Hội thẩm nhân dân, tiếp đến người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đương sự và những người tham gia tố tụng khác. Trường hợp có Viện kiểm sát tham gia phiên tòa thì Viện kiểm sát sẽ hỏi sau đương sự.
Việc hỏi nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, hỏi người làm chứng, hỏi người giám định đã được quy định khá rõ và cụ thể tại các Điều 250, 251, 252, 253, 257 BLTTDS 2015. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử, tùy từng vụ án và tính chất của vụ án đó mà không nhất thiết lúc nào cũng phải hỏi theo thứ tự các điều đã quy định như trên.
Nếu một vụ án có nhiều vấn đề phải xem xét thì Hội đồng xét xử hỏi từng vấn đề, làm rõ vấn đề này rồi mới chuyển sang vấn đề khác. Cần tập trung hỏi những vấn đề chưa rõ, còn mâu thuẫn trong chính lời khai của đương sự, mâu thuẫn giữa lời khai của các đương sự, mâu thuẫn giữa lời khai của đương sự với người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ hay các tài liệu khác có trong hồ sơ.
Đối với người giám định được yêu cầu đến phiên tòa thì chủ tọa phiên tòa yêu cầu người giám định trình bày kết luận của mình về vấn đề cần giám định và họ có quyền giải thích, bổ sung về kết luận giám định, căn cứ để đưa ra kết luận giám định đó. Theo quy định tại khoản 2 Điều 257 BLTTDS 2015 thì Kiểm sát viên, những người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa có quyền nhận xét về kết luận giám định, được hỏi về những vấn đề chưa rõ, còn mâu thuẫn trong kết luận giám định hoặc có mâu thuẫn với các tình tiết khác của vụ án.
Trong quá trình xét xử, tùy từng trường hợp mà Hội đồng xét xử sẽ công bố các tài liệu của vụ án. Tuy nhiên, trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh theo yêu cầu của đương sự thì Hội đồng xét xử không công bố các tài liệu có trong hồ sơ.(Điều 254 BLTTDS 2015)
Khi nhận thấy các tình tiết của vụ án đã được xem xét một cách đầy đủ, chủ tọa phiên tòa hỏi Kiểm sát viên, hỏi đương sự, người bảo vệ quyền lợi cho họ và những người tham gia tố tụng khác xem họ có yêu cầu hỏi vấn đề gì nữa không. Trong trường hợp có người yêu cầu và xét thấy yêu cầu đó là có căn cứ thì chủ tọa quyết định tiếp tục xét hỏi.(Điều 258 BLTTDS 2015)
- Tranh luận tại phiên tòa
Tranh luận tại phiên tòa là một bước tố tụng quan trọng. Quá trình tranh luận là quá trình các bên đưa ra quan điểm của mình về đánh giá chứng cứ, về áp dụng pháp luật và đề xuất đường lối giải quyết vụ án. Người tham gia tranh luận phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ để tranh luận và đối đáp lại ý kiến của phía bên kia. Chủ tọa phiên tòa phải tạo điều kiện cho các bên tranh luận, trình bày ý kiến của họ, không được hạn chế thời gian tranh luận. Tuy vậy, chủ tọa phiên tòa có quyền “cắt” những ý kiến không liên quan đến vụ án hoặc trình bày lan man, không đi vào những điểm chính, không liên quan trực tiếp đến vụ án, không góp phần làm sáng tỏ những vấn đề mà các bên đương sự đặt ra.
Thứ tự tranh luận tại phiên tòa: Chủ tọa phiên tòa yêu cầu nguyên đơn, đại diện nguyên đơn phát biểu ý kiến tranh luận, sau đó là phía bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan lần lượt phát biểu ý kiến và trình bày quan điểm. Trong quá trình phát biểu, các bên tranh chấp có thể đáp lại ý kiến của nhau, nhưng không được tranh luận theo hướng xúc phạm nhau. Trong quá trình tranh luận, nếu đương sự nào có thái độ chưa đúng mực thì Chủ tọa phiên tòa cần bình tĩnh nhắc nhở họ thực hiện đúng nội quy phiên tòa và sự điều khiển của Hội đồng xét xử.
Qua tranh luận, nếu xét thấy có tình tiết của vụ án chưa được xem xét, việc xem xét chưa được đầy đủ hoặc cần phải xem xét thêm chứng cứ thì Hội đồng xét xử quyết định trở lại phần xét hỏi. Sau khi xét hỏi xong sẽ tiếp tục phần tranh luận tại phiên tòa. Như vậy, quá trình tranh luận và xét hỏi tại phiên tòa có mối quan hệ khăng khít với nhau.
Sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận, đối đáp xong thì đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa sẽ phát biểu ý kiến. Theo quy định tại Điều 262 BLTTDS 2015 thì Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án.
Tuy nhiên, tại BLTTDS 2015 “Những quy định về phiên tòa sơ thẩm” có quy định: “Tòa án phải… nghe Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện Kiểm sát về việc giải quyết vụ án, trong trường hợp có kiểm sát viên tham gia phiên tòa…”(Điều 225 BLTTDS 2015). Do vậy, có ý kiến cho rằng, theo quy định nêu trên thì Kiểm sát viên không chỉ phát biểu về vấn đề tố tụng mà còn có quyền phát biểu về đường lối giải quyết vụ án.Cần lưu ý, Điều 225 thuộc Mục 1 “Quy định chung về phiên tòa sơ thẩm” là quy định mang tính nguyên tắc, bởi vậy, về nội dung phát biểu ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm không chỉ căn cứ vào Điều 262 BLTTDS 2015 mà còn phải căn cứ vào Điều 225 BLTTDS 2015.
Như vậy, có sự thiếu thống nhất trong quy định về việc Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của mình tại phiên tòa giữa Điều 262và Điều 225 BLTTDS 2015. Tuy nhiên, Điều 262 BLTTDS 2015 là điều luật quy định cụ thể về tố tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa, nên các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải thực hiện đúng theo quy định tại Điều 262 đã được sửa đổi. Đây là quy định rất mới, nếu theo quy định của BLTTDS 2015 thì Viện kiểm sát phát biểu về việc giải quyết vụ án, nghĩa là phát biểu cả về nội dung, đưa ra quan điểm, đường lối giải quyết vụ án. Với quy định mới này, Viện kiểm sát phải xem xét, đánh giá việc thụ lý vụ án có đúng pháp luật hay không? Vụ án có thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án đó hay không? Thời hiệu khởi kiện còn hay đã hết? Việc thu thập chứng cứ của vụ án đó có đúng theo trình tự quy định của pháp luật hay không? Việc thực hiện tố tụng tại phiên tòa như thế nào, đã đảm bảo việc xét xử công khai, khách quan hay không?… Kiểm sát viên không phát biểu về đánh giá chứng cứ, đường lối giải quyết vụ án.
- Phần nghị án và tuyên án
Các thành viên Hội đồng xét xử phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số về từng vấn đề một; cụ thể là các vấn đề chính sau: căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa, qua việc hỏi và tranh luận tại phiên tòa, qua việc xem xét ý kiến của những người tham gia tố tụng. Kiểm sát viên (nếu có) đã đủ căn cứ để chấp nhận toàn bộ, một phần các yêu cầu của nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc không chấp nhận toàn bộ, một phần các yêu cầu của các đương sự hay chưa, nếu đã đủ căn cứ để chấp nhận thì theo điểm, khoản, điều luật nào của văn bản quy phạm pháp luật tương ứng và án phí dân sự sơ thẩm.
Trong trường hợp Hội đồng xét xử sơ thẩm chỉ có một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân, thì khi phát biểu (hoặc khi biểu quyết) các Hội thẩm nhân dân phát biểu (hoặc biểu quyết) trước, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phát biểu (hoặc biểu quyết) sau. Trong trường hợp Hội đồng xét xử có hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân, thì các Hội thẩm nhân dân phát biểu (hoặc biểu quyết) trước, đến Thẩm phán không phải là chủ tọa phiên tòa và sau cùng là Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phát biểu (hoặc biểu quyết).
Thành viên của Hội đồng xét xử có ý kiến thiểu số, thì có quyền (không phải là nghĩa vụ) trình bày ý kiến của mình bằng văn bản riêng và văn bản đó được đưa vào hồ sơ vụ án.
Trong biên bản nghị án phải ghi lại đầy đủ các ý kiến đã thảo luận về từng vấn đề một và quyết định theo đa số của Hội đồng xét xử về từng vấn đề đó. Các thành viên của Hội đồng xét xử phải ký vào biên bản nghị án tại phòng nghị án trước khi tuyên án.
Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, việc nghị án đòi hỏi phải có thời gian dài, thì Hội đồng xét xử có thể quyết định thời gian nghị án nhưng không quá năm ngày làm việc, kể từ khi kết thúc tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử phải thông báo ngày giờ tuyên án cho các đương sự biết. Nếu đã ấn định ngày giờ tuyên án mà có thay đổi, thì Hội đồng xét xử phải thông báo lại cho các đương sự biết về việc thay đổi đó.
Qua nghị án, nếu thấy có tình tiết của vụ án chưa được xem xét, việc hỏi chưa đầy đủ hoặc cần xem xét thêm chứng cứ thì Hội đồng xét xử quyết định quay lại phần xét hỏi, tranh luận. Điều này cho thấy nghị án là một phần rất quan trọng trong quá trình xét xử vụ án. Trong thực tế xét xử, có trường hợp Hội đồng xét xử xem xét các vấn đề rất qua loa, Hội thẩm nhân dân chưa phát huy hết trách nhiệm của mình, hoặc chưa thể hiện rõ quan điểm, chưa bảo vệ quan điểm của mình, còn lệ thuộc vào Thẩm phán, nhất là Thẩm phán chủ tọa phiên tòa; hoặc có trường hợp vụ án có nhiều vấn đề nhưng không nghị án từng vấn đề một; biên bản nghị án không ghi đầy đủ mà chỉ ghi chung chung; có biên bản nghị án chưa đủ các thành viên ký hoặc không ai ký, không lập biên bản nghị án,… Các hiện tượng này cần phải được khắc phục ngay để đảm bảo vụ án được xét xử theo đúng quy định của pháp luật, đảm bảo công bằng cho các đương sự và tạo được niềm tin vào cán cân pháp lý của Nhà nước.
+) Tuyên án: Khi tuyên án, có thể chủ tọa hoặc một thành viên Hội đồng xét xử tuyên đọc bản án. Khi tuyên đọc xong, Thẩm phán có thể giải thích thêm về quyền kháng cáo, về việc thi hành án. Trong trường hợp đương sự không biết tiếng Việt thì phải phiên dịch toàn bộ bản án sang ngôn ngữ mà họ biết. Như vậy, không phải phiên dịch lại lời tuyên án tại phiên tòa mà Tòa án còn phải dịch bản án sang ngôn ngữ mà đương sự biết để cấp bản án cho họ.
Bản án phải được các thành viên Hội đồng xét xử thông qua và ký tại phòng nghị án, được lưu trong hồ sơ vụ án. Trên cơ sở bản gốc, chủ tọa thay mặt Hội đồng xét xử ký các bản chính để gửi đi.
Qua bài viết Cơ Sở Lý Luận Về Tranh Chấp Hợp Đồng Mua Bán Hàng Hóa cùng với những kiến thức mà các bạn đã học được Luận Văn Tốt tin rằng bạn hoàn toàn có thể hoàn thành cho mình bài luận văn thạc sĩ về Tranh Chấp Hợp Đồng Mua Bán Hàng Hóa đạt chất lượng. Chúc các bạn thành công.