Chắc hẳn bạn đang đi tìm kiếm bài mẫu Tiểu Luận Nguyên Tắc Pháp Lý Giao Kết Hợp Đồng Bảo Hiểm nhưng mọi thứ thật mơ hồ, làm cách nào để hoàn thành bài tiểu luận về đề tài Nguyên Tắc Pháp Lý Giao Kết Hợp Đồng Bảo Hiểm, có phải điều này đã khiến bạn đau đầu lắm đúng không? Vậy bạn đừng quá lo lắng ngay bây giờ chúng tôi sẽ chia sẻ đến bạn nội dung mà bạn cần tìm vừa hỗ trợ bạn trong việc học hỏi vừa giúp bạn tiết kiệm nhiều thời gian làm bài tiểu luận của chính các bạn.
Tuy nhiên trong quá trình làm bài nếu các bạn cần thêm tài liệu tham khảo hoặc gặp khó khăn về bài tiểu luận thì các bạn hãy liên hệ với Luận Văn Tốt qua Zalo/tele :0934573149 để được cung cấp tài liệu miễn phí và hỗ trợ các bạn hoàn thành bài tiểu luận đạt kết quả cao bạn nhé
Tóm tắt nội dung: Nguyên tắc pháp lý giao kết hợp đồng bảo hiểm có vai trò hết sức quan trọng giúp các bên trong việc xử lý những vấn đề phát sinh trong trường hợp một trong các bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng những điều đã ký kết trong hợp đồng. Trong giai đoạn hiện nay để nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định trong giao kết hợp đồng, vấn đề có ý nghĩa chiến lược đặt ra đó là cần phải áp dụng nguyên tắc pháp lý giao kết hợp đồng bảo hiểm phù hợp và đúng theo các quy định của pháp luật, việc áp dụng nguyên tắc pháp lý giao kết hợp đồng bảo hiểm luôn luôn được xác định là cơ sở, căn cứ quan trọng và có tầm ảnh hưởng đến quyền lợi và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng. Trên cơ sở đó bài viết đề cập và phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng bảo hiểm, nguyên tắc pháp lý giao kết hợp đồng bảo hiểm. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này.
Từ khoá: Luật Kinh doanh bảo hiểm, Bộ Luật Dân sự, doanh nghiệp bảo hiểm.
Nguyên Tắc Pháp Lý Giao Kết Hợp Đồng Bảo Hiểm là một trong những chế định và nội dung quan trọng của Luật Kinh doanh bảo hiểm. Các quy định liên quan đến Hợp đồng bảo hiểm được quy định trong Bộ Luật Dân sự (BLDS) năm 2015 và Luật Kinh doanh bảo hiểm (LKDBH) sửa đổi số 61/2010/QH12 năm 2010, Luật Kinh doanh bảo hiểm sửa đổi số 42/2019/QH14 năm 2019 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Trên thực tế, trong thời gian vừa qua các quy định liên quan đến thực hiện nguyên tắc pháp lý trong giao kết hợp đồng bảo hiểm theo quy định của pháp luật đã bộc lộ khá nhiều bất cập, vướng mắc gây khó khăn cho các bên trong quá trình thực hiện, áp dụng pháp luật.
Thứ nhất, nguyên tắc cung cấp thông tin trung thực khi giao kết hợp đồng bảo hiểm
Theo điểm b khoản 2 Điều 18 Luật Kinh doanh bảo hiểm, bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ kê khai đầy đủ, trung thực mọi chi tiết có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH). Theo quy định này, đối tượng của nghĩa vụ khai báo là “mọi chi tiết theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm”. Nhưng cụm từ “mọi chi tiết theo yêu cầu của doanh nghiệp” được hiểu và giải thích như thế nào, điều này là chưa rõ ràng và gây ra một số vướng mắc trên thực tế. Trên cơ sở đó hiện nay Toà án xét xử theo hướng yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm khi đưa ra sản phẩm bảo hiểm thì doanh nghiệp đã phải dự tính được các rủi ro và bên mua bảo hiểm không có nghĩa vụ phải thông báo về các rủi ro mà doanh nghiệp tại thời điểm giao kết hợp đồng không coi nó là một rủi ro. Thực tiễn cũng có trường hợp bên mua bảo hiểm có bệnh, nhưng không kê khai thông tin khi xác lập bảo hiểm nhưng Tòa án vẫn xác định bên mua bảo hiểm không vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin trung thực vì bên mua bảo hiểm không biết có bệnh đó. Mặt khác, khi vi phạm nghĩa vụ trung thực thì hậu quả pháp lý xảy ra là gì. Trong Luật Kinh doanh bảo hiểm, có hai điều khoản cùng quy định về hậu quả pháp lý của việc vi phạm nghĩa vụ trung thực, gây ra nhiều khó khăn trong việc áp dụng trên thực tiễn. Cụ thể tại Điểm a khoản 2 Điều 19 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định: “Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm và thu phí tính đến thời điểm đình chỉ hợp đồng khi bên mua bảo hiểm cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được trả tiền bảo hiểm hoặc được bồi thường”. Nhưng tại Điểm d khoản 1 Điều 22 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định: “Hợp đồng bảo hiểm vô hiệu trong trường hợp bên mua bảo hiểm hoặc doanh nghiệp bảo hiểm có hành vi lừa dối khi giao kết hợp đồng bảo hiểm.” Như vậy ở đây có hai căn cứ “có hành vi lừa dối” và “cung cấp thông tin sai sự thật”, xét về bản chất là tương đồng nhưng hậu quả pháp lý lại khác nhau. Nếu áp dụng Điều 19 để đình chỉ hợp đồng, hợp đồng bảo hiểm sẽ chấm dứt kể từ thời điểm doanh nghiệp bảo hiểm thông báo chấm dứt hợp đồng bảo hiểm và bên bảo hiểm sẽ được thu phí bên mua bảo hiểm tính đến thời điểm đình chỉ. Mặt khác, nếu áp dụng Điều 21 để yêu cầu tuyên vô hiệu hợp đồng bảo hiểm thì theo Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015, các bên sẽ hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, bên có lỗi phải bồi thường thiệt hại. Do đó, trên thực tế, việc áp dụng hai điều khoản này không có sự thống nhất. Các bên sẽ tùy ý sử dụng căn cứ “lừa dối” và “cố ý cung cấp thông tin sai sự thật” sao cho có lợi nhất cho bên mình. Thông thường, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ áp dụng điểm a khoản 2 Điều 19 về đình chỉ thực hiện hợp đồng để giữ được số phí bảo hiểm đã đóng của bên mua bảo hiểm, còn bên mua bảo hiểm sẽ muốn áp dụng điểm d khoản 1 Điều 22 yêu cầu Tòa án tuyên hợp đồng bảo hiểm vô hiệu để nhận lại số phí bảo hiểm đã đóng.
XEM THÊM : Quy trình bán Bảo hiểm Nhân thọ tại công ty bảo hiểm Dai-ichi Life
Về mặt lý thuyết, căn cứ để áp dụng chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng là hành vi vi phạm xảy ra trong quá trình các bên thực hiện hợp đồng, như thế hiện tại Điều 428 Bộ luật Dân sự 2015 “một bên có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trong hợp đồng…” ; còn căn cứ để tuyên hợp đồng vô hiệu là hành vi vi phạm xảy ra trước thời điểm các bên giao kết hợp đồng, như được thể hiện tại Điều 127 Bộ luật dân sự “khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối…thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.” Tuy nhiên, hành vi “cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm” về bản chất là hành vi lừa dối khi giao kết hợp đồng, xảy ra trước thời điểm các bên giao kết hợp đồng, nhưng Luật Kinh doanh bảo hiểm vẫn cho rằng đây là căn cứ để đình chỉ thực hiện hợp đồng. Điều này không phù hợp với các quy định của Bộ luật dân sự 2015 cũng như nguyên tắc trong giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, có quan điểm cho rằng, quy định về đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm trong Luật Kinh doanh bảo hiểm là quy định đặc thù nhằm bảo đảm quyền lợi của doanh nghiệp bảo hiểm. Xuất phát từ đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm được thực hiện trên Nguyên Tắc Pháp Lý Giao Kết Hợp Đồng Bảo Hiểm và thực hiện hợp đồng. Do đó, những thông tin được cung cấp trong hợp đồng có ảnh hưởng đến giá trị của hợp đồng bảo hiểm, ảnh hưởng trực tiếp đến việc doanh nghiệp bảo hiểm đánh giá rủi ro và ra quyết định thiết lập hay không thiết lập hợp đồng bảo hiểm. Do vậy, khi áp dụng điểm d khoản 1 Điều 22 Luật Kinh doanh bảo hiểm để tuyên hợp đồng vô hiệu đối với hành vi “cố ý cung cấp thông tin sai sự thật…”, quyền lợi của bên bị lừa đối (thường là các doanh nghiệp bảo hiểm) sẽ không được bảo đảm. Do vậy, để bảo đảm quyền lợi của doanh nghiệp bảo hiểm và buộc bên mua bảo hiểm tôn trọng nguyên tắc trung thực, Luật Kinh doanh bảo hiểm cần một chế tài phù hợp hơn là tuyên hợp đồng vô hiệu, các bên trả lại cho nhau những gì đã nhận. Do đó, Điều 19 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định về quyền đơn phương đình chỉ hợp đồng của doanh nghiệp bảo hiểm khi bên mua bảo hiểm có hành vi “cố ý cung cấp thông tin sai sự thật…” quan điểm này có điểm không phù hợp, bởi doanh nghiệp bảo hiểm vẫn có thể yêu cầu bên mua bảo hiểm bồi thường thiệt hại khi hợp đồng bị tuyên vô hiệu dựa trên quy định tại Điều 131 BLDS 2015 “…bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Do đó, việc áp dụng căn cứ “cố ý cung cấp thông tin sai sự thật” để đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm theo khoản 2 Điều 19 của Luật Kinh doanh bảo hiểm là không phù hợp với nguyên tắc về đơn phương chấm dứt hợp đồng theo Điều 428 BLDS năm 2015.
Ngoài ra, tại Điều 34 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định về nghĩa vụ thông báo tuổi trong bảo hiểm nhân thọ. Đây thực ra là một nghĩa vụ cụ thể của nghĩa vụ cung cấp thông tin trung thực trong giao kết hợp đồng bảo hiểm con người. Điều 34 quy định “trong trường hợp bên mua bảo hiểm thông báo sai tuổi của người được bảo hiểm, nhưng tuổi đúng của người được bảo hiểm không thuộc nhóm tuổi có thể được bảo hiểm thì doanh nghiệp có quyền hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm và hoàn trả số phí bảo hiểm đóng cho bên bảo hiểm sau khi đã trừ các chi phí có liên quan”. Nếu xét đến chế tài áp dụng cho trường hợp thông báo sai tuổi cũng là một trường hợp cung cấp thông tin sai sự thật thì Điều 34 lại đặt ra một chế tài khác so với Điều 19 và Điều 22, đó là hủy bỏ hợp đồng. Theo quy định của Điều 423 và 427 BLDS năm 2015, hủy bỏ hợp đồng được áp dụng trong trường hợp một bên vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng, làm cho mục đích của việc giao kết hợp đồng không thể thực hiện được; khi hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên phải hoàn trả nhau những gì đã nhận. Có thể thấy rằng, hủy bỏ hợp đồng được áp dụng khi có hành vi vi phạm xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng tương tự như đình chỉ hợp đồng nhưng hậu quả của hủy bỏ hợp đồng lại tương tự như hợp đồng vô hiệu. Dù vậy, hành vi thông báo sai tuổi là một hành vi xảy ra trước thời điểm giao kết hợp đồng, nên việc áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng ở đây là không phù hợp về mặt nguyên tắc.
Thứ hai, nguyên tắc thẳng thắn, khách quan và tôn trọng quyền, nghĩa vụ của các bên nhằm bảo vệ quyền lợi cho bên mua bảo hiểm
Hiện nay thông thường hợp đồng bảo hiểm thường là hợp đồng gia nhập, tức là doanh nghiệp bảo hiểm sẽ soạn sẵn mẫu hợp đồng để bên mua bảo hiểm đồng ý ký kết hợp đồng. Trong trường hợp này, bên mua bảo hiểm phải chịu bất lợi hơn khi không thể yêu cầu sửa đổi hợp đồng mẫu. Mặc dù pháp luật đã có những quy định về giải thích hợp đồng để “bù đắp” những bất lợi mà bên mua bảo hiểm phải chịu nhưng trong thực tế việc áp dụng quy định này vẫn còn chưa thống nhất. Thực tế cho thấy, các hợp đồng mẫu về bảo hiểm hiện nay đa số có nhiều thuật ngữ khó hiểu nên mặc dù gây bất lợi cho bên mua bảo hiểm nhưng khách hàng họ không thể nhận ra ngay trừ khi có sự giúp đỡ tìm hiểu bởi chuyên gia về bảo hiểm.
Mặt khác, Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định nguyên tắc chung giải thích hợp đồng bảo hiểm đó là “trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm có điều khoản không rõ ràng thì điều khoản đó được giải thích theo hướng có lợi cho bên mua bảo hiểm”[1]. Luật Kinh doanh bảo hiểm không quy định cụ thể cách thức giải thích hợp đồng như thế nào. Tuy nhiên, cần phải hiểu rằng, nguyên tắc này sẽ được áp dụng cùng với các nguyên tắc giải thích hợp đồng khác tại Bộ luật Dân sự. Bộ luật Dân sự quy định nguyên tắc giải thích hợp đồng sẽ thực hiện theo thứ tự: theo ý chí đích thực của các bên khi xác lập giao dịch; theo nghĩa phù hợp với mục đích của giao dịch và theo tập quán nơi giao dịch được xác lập. Việc giải thích điều khoản hợp đồng bảo hiểm theo hướng có lợi cho bên mua bảo hiểm không đồng nghĩa với việc Tòa án phải chấp nhận cách giải thích một điều khoản mà bên mua bảo hiểm đưa ra. Như vậy, trong trường hợp này nếu Tòa án chấp nhận giải thích điều khoản hợp đồng theo cách giải thích của bên mua bảo hiểm thì các nguyên tắc được thừa nhận rộng rãi trong quan hệ bảo hiểm sẽ bị phá vỡ. Do đó, từ những phân tích trên, việc giải thích hợp đồng bảo hiểm theo hướng có lợi cho người mua bảo hiểm khi có điều khoản không rõ ràng phải được đặt trong sự phù hợp với các nguyên tắc giải thích hợp đồng của Bộ luật Dân sự và phù hợp với các thông lệ trong quan hệ bảo hiểm, chứ không được áp dụng một cách tùy tiện.
Thứ ba, nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự, theo đó cá nhân, pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự[2]. Trên cơ sở các quy định trong thực hiện nguyên tắc, nếu một trong các bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự thì phải tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình, trong đó có trường hợp chấm dứt hợp đồng. Do đó, theo Luật Kinh doanh bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm chấm dứt trong những trường hợp sau:
– Bên mua bảo hiểm không còn quyền lợi có thể được bảo hiểm. Quyền lợi có thể được bảo hiểm là các quyền lợi gắn với đối tượng bảo hiểm mà có khả năng sẽ bị tổn hại và khi bị tổn hại sẽ gây ra một tổn thất cho người mua bảo hiểm. Quan hệ bảo hiểm nhắm đến khả năng bị tổn hại hay rủi ro của các quyền lợi đó. Nếu rủi ro xảy ra, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ chia sẻ rủi ro đó với bên mua bảo hiểm bằng việc trả một khoản bồi thường theo thỏa thuận cho bên mua bảo hiểm. Nếu quyền lợi gắn với đối tượng bảo hiểm không còn khả năng bị tổn hại trong tương lai, tức là không có khả năng xảy ra rủi ro thì hợp đồng giữa doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm sẽ trở nên vô nghĩa. Do đó, có thể hiểu rằng hợp đồng sẽ chấm dứt trên cơ sở đối tượng của hợp đồng không còn như quy định tại Bộ luật Dân sự.
Trong trường hợp trên, theo quy định tại Điều 24, sau khi hợp đồng bảo hiểm chấm dứt, doanh nghiệp bảo hiểm phải hoàn lại phí bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm tương ứng với thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm mà bên mua bảo hiểm đã đóng phí bảo hiểm, sau khi đã trừ các chi phí hợp lý có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm. Tuy nhiên, quy định này chỉ phù hợp đối với các hợp đồng bảo hiểm mà theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng toàn bộ phí bảo hiểm trong một lần. Đối với các hợp đồng bảo hiểm con người, bên mua bảo hiểm đóng phí định kỳ, thì doanh nghiệp bảo hiểm sẽ không thể hoàn phí trên cơ sở tại Điều 24[3]. Trong thực tiễn, phát sinh một số vướng mắc nhất định trong trường hợp chấm dứt hợp đồng bảo hiểm do bên mua bảo hiểm không còn quyền lợi có thể được bảo hiểm. Chẳng hạn, trường hợp chồng mua bảo hiểm nhân thọ cho vợ, sau đó hai vợ chồng ly hôn thì có coi là trường hợp bên mua bảo hiểm không còn quyền lợi có thể được bảo hiểm để chấm dứt hợp đồng bảo hiểm theo khoản 1 Điều 23 của Luật Kinh doanh bảo hiểm không. Hoặc khi người lao động không còn làm việc tại doanh nghiệp mua bảo hiểm nữa thì hợp đồng bảo hiểm đó sẽ được duy trì hiệu lực như thế nào. Đây vẫn còn là những câu hỏi đang bỏ ngỏ trong pháp luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam về triển khai nguyên tắc trong thực tiễn.
– Bên mua bảo hiểm không đóng đủ phí bảo hiểm hoặc không đóng phí bảo hiểm theo thời hạn thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm hoặc đã gia hạn thời hạn đóng phí bảo hiểm nhưng tiếp tục không đóng đủ phí bảo hiểm trong khoảng thời gian gia hạn đã thỏa thuận. Theo Điều 12 LKDBH, hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm để đổi lại quyền hưởng tiền bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm xảy ra. Do đó, nghĩa vụ đóng phí là nghĩa vụ cơ bản của bên mua bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm. Việc bên mua bảo hiểm không đóng phí bảo hiểm hoặc không đóng đủ phí bảo hiểm có thể coi là một vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của hợp đồng bảo hiểm và là cơ sở để doanh nghiệp bảo hiểm đơn phương chấm dứt việc thực hiện hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự. Trong trường hợp này, sau khi hợp đồng bảo hiểm chấm dứt thì bên mua bảo hiểm phải đóng đủ phí bảo hiểm cho đến thời điểm chấm dứt hợp đồng hoặc cho đến hết thời gian gia hạn theo thỏa thuận.
Thứ tư, Nguyên Tắc Pháp Lý Giao Kết Hợp Đồng Bảo Hiểm bình đẳng, tự do ý chí, quyền và nghĩa vụ chính đáng của tất cả các chủ thể trong giao kết và thực hiện hợp đồng
Hiện nay mặc dù DNBH và bên mua bảo hiểm trong quá trình giao kết hợp đồng đã cơ bản tuân thủ các nguyên tắc, đồng thời đáp ứng các yêu cầu đảm bảo bình đẳng, tự do ý chí, quyền và nghĩa vụ chính đáng của tất cả các chủ thể trong giao kết và thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên về cơ bản vẫn còn hành vi tìm cách trục lợi bảo hiểm. Vì vậy đòi hỏi phải có những biện pháp mạnh mẽ nhằm đấu tranh ngay từ thời điểm giao kết hợp đồng đến suốt quá trình thực hiện hợp đồng và giải quyết quyền lợi bảo hiểm. Hiện nay, khi thị trường bảo hiểm Việt Nam đã bắt đầu phát triển, hành vi trục lợi bảo biểm có tính chất tinh vi, phức tạp, gây khó khăn trong việc xác định, đánh giá, làm thiệt hại cho DNBH khi thực hiện trách nhiệm bồi thường. Gần đây tình trạng trục lợi gia tăng có dấu hiệu của sự cấu kết, liên minh, đòi hỏi cần có giải pháp chủ động phòng ngừa. Đối tượng trục lợi bảo hiểm có thể là bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm, người thụ hưởng, đại lý vi phạm quy định về đạo đức nghề nghiệp. Hành vi trục lợi như trên gây tổn thất về mặt tài chính khi phải trả tiền bồi thường cho những trường hợp không thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm, gây khó khăn cho công tác xác minh, ảnh hưởng đến thương hiệu, uy tín của DNBH. Đối với khách hàng, tình trạng trục lợi bảo hiểm tạo nên sự không công bằng, thiệt hại về tài chính đối với những khách hàng bị áp dụng mức phí cao hơn bình thường, bị từ chối bồi thường. Đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm, tình trạng trục lợi bảo hiểm kìm hãm sự phát triển của thị trường bảo hiểm (chi phí bồi thường cao dẫn đến phải tăng phí bảo hiểm gây thiệt thòi cho khách hàng, các DNBH không thể mở rộng các loại hình bảo hiểm có dấu hiệu hoặc nguy cơ trục lợi cao). Ðể khắc phục, nâng cao khả năng phòng ngừa trục lợi bảo hiểm, cần thực hiện giải pháp đồng bộ từ các DNBH đến cơ quan quản lý nhà nước.
XEM THÊM : Công Chứng Các Hợp Đồng Về Đảm Bảo Thực Hiện Nghĩa Vụ
Trên cơ sở đó cho thấy rằng, nguyên tắc pháp lý trong giao kết hợp đồng bảo hiểm nói riêng và các quy định của pháp luật về nội dung trong hợp đồng bảo hiểm nói chung hiện nay vẫn còn chưa đầy đủ, chính xác. Vì vậy, các nhà làm luật cần hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này trên cơ sở tôn trọng các định hướng sau đây:
– Thực hiện hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng bảo hiểm trên cơ sở bám sát chủ trương của Đảng, Nhà nước phát triển thị trường tài chính, bảo hiểm. Mục tiêu tổng quát của Chiến lược nhằm phát triển thị trường bảo hiểm phù hợp với định hướng phát triển nền kinh tế – xã hội và tài chính quốc gia trong từng thời kỳ; bảo đảm thực hiện các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Đồng thời, tăng cường tính an toàn, bền vững và hiệu quả của thị trường và khả năng đáp ứng nhu cầu bảo hiểm đa dạng của các tổ chức, cá nhân; góp phần ổn định nền kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội, tiếp cận các chuẩn mực, thông lệ quốc tế về kinh doanh bảo hiểm và từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển với các quốc gia trong khu vực.
– Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm. Luật Kinh doanh bảo hiểm được Quốc hội thông qua năm 2000, sửa đổi bổ sung năm 2010 và năm 2019 đã tạo ra hành lang pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Từ khi ra đời cho đến nay, Luật Kinh doanh bảo hiểm đã có tác động tích cực đến sự phát triển của thị trường kinh doanh bảo hiểm. Mặc dù có sự phát triển rõ rệt cả về quy mô và năng lực, thị trường bảo hiểm Việt Nam vẫn là một thị trường non trẻ. Hành lang pháp lý hỗ trợ cho hoạt động của thị trường kinh doanh bảo hiểm nói chung và cơ sở pháp lý trong giao kết hợp đồng bảo hiểm nói riêng vẫn còn nhiều lỗ hổng và thiếu sót, các văn bản pháp luật mà đặc biệt là Luật Kinh doanh bảo hiểm đã trở nên lỗi thời, dẫn đến nhiều tranh chấp trong hoạt động bảo hiểm giữa doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm. Do đó, để củng cố hành lang pháp lý của hoạt động kinh doanh bảo hiểm, nhiệm vụ hàng đầu đặt ra chính là sửa đổi, bổ sung Luật Kinh doanh bảo hiểm. Trên cơ sở đó cần đưa ra một số giải pháp hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển thị trường như sau[4]:
+ Mở rộng phạm vi điều chỉnh của LKDBH đáp ứng yêu cầu phát triển của thị trường, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bảo hiểm phát triển các sản phẩm, kênh phân phối mới; tạo cơ sở pháp lý cho các tổ chức cung cấp dịch vụ bổ trợ cho lĩnh vực bảo hiểm;
+ Hoàn thiện một số quy định tại Luật Kinh doanh bảo hiểm, đảm bảo thống nhất, đồng bộ giữa hệ thống pháp luật về kinh doanh bảo hiểm và hệ thống pháp luật có liên quan (Luật doanh nghiệp, Bộ Luật dân sự…);
+ Thay đổi phương thức quản lý, giám sát trên cơ sở rủi ro, đồng thời sửa đổi, bổ sung một số quy định về quản lý, giám sát nhằm tăng tính chủ động cho doanh nghiệp trong quản trị tài chính, quản trị rủi ro;
+ Bổ sung một số quy định nhằm tăng cường vai trò quản lý giám sát của cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo hiểm, nhằm đáp ứng yêu cầu của thị trường và thực tiễn hoạt động kinh doanh bảo hiểm, bảo vệ quyền lợi người tham gia bảo hiểm và an toàn tài chính trong lĩnh vực bảo hiểm.
– Đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta, xây dựng hệ thống pháp luật về giao kết hợp đồng bảo hiểm tương thích với pháp luật và tập quán thương mại quốc tế trên cơ sở vận dụng linh hoạt những thành tựu của pháp luật các nước phát triển ngành bảo hiểm trên thế giới các Điều ước quốc tế và thông lệ quốc tế sao cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
– Nghiên cứu và tổng kết thực tiễn áp dụng LKDBH tại Việt Nam, đặc biệt là thực tiễn xét xử của Tòa án để phát hiện những ưu khuyết điểm của LKDBH về giao kết hợp đồng bảo hiểm; từ đó tiếp tục cho thi hành những quy định phù hợp với thực tiễn đồng thời quy định bổ sung hoặc sửa đổi những quy định chưa thích hợp, hoàn thiện LKDBH tại Việt Nam.
– Tăng cường sự kiểm soát giao dịch bảo hiểm bằng pháp luật theo hướng bảo vệ lợi ích chính đáng của người được bảo hiểm người thụ hưởng, mặt khác kiên quyết đấu tranh chống trục lợi bảo hiểm, phát triển thị trường bảo hiểm lành mạnh, bền vững tại Việt Nam. Tóm lại, việc sửa đổi, bổ sung các nội dung liên quan đến giao kết hợp đồng bảo hiểm là thiết thực, đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng sử dụng sản phẩm bảo hiểm cũng như bảo đảm hiệu quả pháp luật và tính pháp chế.
Chính vì vậy, từ các yêu cầu chung nêu trên để hoàn thiện pháp luật quy định về nguyên tắc pháp lý giao kết hợp đồng bảo hiểm trong thời gian tới cần tập trung vào những giải pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, về nghĩa vụ cung cấp thông tin trung thực khi giao kết hợp đồng bảo hiểm. Do hợp đồng bảo hiểm là một loại hợp đồng chuyên biệt nên hậu quả pháp lý của hành vi không tuân thủ nghĩa vụ cung cấp thông tin trung thực sẽ chịu sự điều chỉnh của luật chuyên ngành là Luật Kinh doanh bảo hiểm (do Luật Kinh doanh bảo hiểm không quy định hoặc dẫn chiếu tới Luật chung là Bộ luật dân sự). Do vậy, khi có hành vi “cố ý cung cấp thông tin sai sự thật” thì sẽ áp dụng Điều 19.2 của Luật Kinh doanh bảo hiểm và khi một trong các bên có hành vi “lừa dối khi giao kết hợp đồng” sẽ áp dụng điểm d khoản 1 Điều 22 Luật Kinh doanh bảo hiểm. Như vậy, cần đặt ra vấn đề giải thích thế nào là “lừa dối khi giao kết hợp đồng” và xác định những tiêu chí nhất định để phân định rõ với hành vi “cố ý cung cấp thông tin không đúng sự thật” để từ đó các bên trong hợp đồng bảo hiểm có thể áp dụng những chế tài phù hợp, tránh tranh chấp giữa các bên. Hiện nay, chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể, do vậy việc giải thích và áp dụng các điều luật này phụ thuộc vào việc xét xử của Tòa án.
Thứ hai, về thay đổi phí bảo hiểm khi có sự thay đổi mức độ rủi ro được bảo hiểm. Cần quy định theo hướng phân biệt giữa nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan trong sự kiện tăng mức độ rủi ro được bảo hiểm; theo đó, trong trường hợp có sự thay đổi các yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm mà nguyên nhân là do bên mua bảo hiểm hoặc bên được bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền tăng phí bảo hiểm và được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng với bên mua bảo hiểm nếu bên mua bảo hiểm không đồng ý với đề xuất tăng phí.
Thứ ba, để khắc phục, nâng cao việc thực hiện các nguyên tắc trong hợp đồng bảo hiểm, tránh tình trạng trục lợi bảo hiểm cần thực hiện giải pháp đồng bộ từ các DNBH đến cơ quan quản lý nhà nước.
– Kiểm soát từ phía DNBH: Để kiểm soát giao dịch trục lợi bảo hiểm, hạn chế sự thất thoát tài chính từ việc chi trả quyền lợi bảo hiểm, các DNBH ở Việt Nam hiện nay cần tiếp tục áp dụng các biện pháp sau:
+ Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tư vấn dịch vụ bảo hiểm; tăng cường đào tạo đại lý về sự nghiêm túc trong công việc, tuân thủ quy định nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp;
+ Quản lý tốt công tác đánh giá rủi ro, chấp nhận bảo hiểm;
+ Tăng cường công tác giám định xác minh; thường xuyên tập huấn cho các cán bộ xác minh, cán bộ giải quyết quyền lợi bảo hiểm;
+ Xử lý nghiêm ngặt các đại lý vi phạm quy định nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp, trục lợi bảo hiểm;
+ Tăng cường hợp tác với các cơ quan hữu quan trong việc phòng chống trục lợi bảo hiểm (như cơ quan công an, bệnh viện…).
– Kiểm soát từ phía cơ quan quản lý nhà nước
Về Nguyên Tắc Pháp Lý Giao Kết Hợp Đồng Bảo Hiểm, nhà nước kiểm soát các giao dịch trục lợi bảo hiểm thông qua trước hết là hệ thống các văn bản pháp luật quy định về trách nhiệm của các bên tham gia bảo hiểm trong đó có nghĩa vụ kê khai trung thực các thông tin khi giao kết, thực hiện hợp đồng. Vì thế, cần rà soát lại hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động kinh doanh bảo hiểm, sửa đổi và bổ sung để việc áp dụng pháp luật được hiệu quả, thiết thực. Tuy nhiên, LKDBH như các văn bản pháp luật khác của Việt Nam đều chưa đưa ra được chế tài đối với trường hợp trục lợi bảo hiểm, đây là một hạn chế lớn của pháp luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam. Để kiểm soát giao dịch trục lợi bảo hiểm cần có chế tài nghiêm khắc, đủ mạnh có giá trị răn đe, ngăn chặn, thậm chí xử lý hình sự đối với hành vi trục lợi bảo hiểm gây hậu quả lớn về tài sản, đạo đức, nhân cách, làm giảm sút lòng tin đối với cán bộ, công chức, tổ chức, cơ quan nhà nước. Đồng thời phải có cơ chế bảo vệ, động viên nhân chứng hợp tác, giúp đỡ công việc điều tra, xác minh liên quan đến bảo hiểm, bồi thường. Để kiểm soát giao dịch trục lợi bảo hiểm, cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm – Cục Quản lý Giám sát Bảo hiểm phải tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra để phát hiện tình trạng trục lợi bảo hiểm, bảo đảm việc tuân thủ quy trình công việc, phát hiện, xử lý kịp thời những sai phạm. Hiện nay, Cục Quản lý Giám sát bảo hiểm cần quản lý chặt các đại lý và có biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với các DNBH tuyển dụng không đúng quy trình, thủ tục.
Bộ Tài chính cần xây dựng quan hệ tốt với cơ quan chức năng có liên quan như cơ quan giám định, điều tra, khoa học chuyên ngành, hợp tác hiệu quả trong giải quyết vụ việc bảo hiểm, bồi thường có yếu tố gian lận, tính phức tạp, không rõ ràng. Bộ Tài chính và Hiệp hội Bảo hiểm cần cập nhật, thông tin kịp thời, rộng rãi các vụ việc trục lợi được phát hiện để trao đổi, rút kinh nghiệm, đưa vào chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ nội bộ, nâng cao năng lực phòng ngừa. Xây dựng quy trình cụ thể về điều tra, xác minh những vụ việc có dấu hiệu gian lận, trục lợi bảo hiểm để triển khai thực hiện trong toàn hệ thống doanh nghiệp. Bộ Tài chính và Hiệp hội bảo hiểm phối hợp truyền thông, chia sẻ các báo cáo về tình hình trục lợi bảo hiểm định kỳ, tạo dư luận ủng hộ việc đấu tranh với những hành vi gian lận, trục lợi bảo hiểm.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Bộ luật Dân sự năm 2005.
- Bộ luật Dân sự năm 2015.
- Đỗ Phương Thảo, “Loại trừ trách nhiệm bảo hiểm trong hợp đồng kinh doanh bảo hiểm”, địa chỉ truy cập: https://tapchitoaan.vn/bai-viet/kinh-doanh/loai-tru-trach-nhiem-bao-hiem-trong-hop-dong-kinh-doanh-b…, đăng ngày 03/5/2018, truy cập ngày 20/5/2022.
- Cục Quản lý giám sát bảo hiểm, “Hoàn thiện chính sách về kinh doanh bảo hiểm”, truy cập tại: https://goo.gl/mS1z6J, đăng ngày 27/6/2018, truy cập ngày 20/5/2022.
- Đinh Minh Tuấn (2011), “Điểm mới của Luật kinh doanh bảo hiểm”, Tạp chí Tài chính – Bảo hiểm, (3), 18-19-20-21.
- Đinh Minh Tuấn (2011), “Điểm mới của Luật kinh doanh bảo hiểm”, Tạp chí Tài chính – Bảo hiểm, (2), 20-21-22-23.
- Luật Kinh doanh bảo hiểm
- Luật Kinh doanh bảo hiểm 2010.
- Luật Kinh doanh bảo hiểm 2019.
- Phí Quỳnh Nga, “ Giải thích hợp đồng bảo hiểm”, Nguồn: https://chat.baovietnhantho.com.vn/newsdetail.asp?websiteId=1&newsId=495&catId=33&lang=VN
- Phí Thị Quỳnh Nga, “Về điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm trong Luật Kinh doanh bảo hiểm”, địa chỉ truy cập: thongtinphapluatdansu.edu.vn.
- Vụ Pháp chế và Quản lý Khoa học – Tòa án nhân dân tối cao, bđd, tr. 8.
- https://stp.bacgiang.gov.vn/hien-thi-noi-dung//asset_publisher/
wtMnvtGfRUNi/content/mot-so-kho-khan-vuong-mac-trong-thuc-hien-phap-luat-ve-hop-ong-trong-linh-vuc-kinh-doanh-bao-hi-1.
[1] Luật Kinh doanh bảo hiểm, Điều 21.
[2] Khoản 5, Điều 3 Bộ Luật dân sự 2015.
[3] Vụ Pháp chế và Quản lý Khoa học – Tòa án nhân dân tối cao, bđd.
[4] Cục Quản lý giám sát bảo hiểm, bđd.
Hy vọng qua bài viết Tiểu Luận Nguyên Tắc Pháp Lý Giao Kết Hợp Đồng Bảo Hiểm trên đây bạn sẽ dể dàng hơn trong việc hoàn thành bài tiểu luận Nguyên Tắc Pháp Lý Giao Kết Hợp Đồng Bảo Hiểm một cách hiệu quả nhất. Khi bạn cần thêm thông tin thì đừng ngần ngại hãy liên hệ với dịch vụ viết tiểu luận của luanvantot.com bạn nhé!