Tiểu Luận Phương Thức Thực Hiện Điều Ước Quốc Tế Trong Luật Quốc Tế

5/5 - (2 bình chọn)

 ??Bài viết Tiểu Luận Phương Thức Thực Hiện Điều Ước Quốc Tế Trong Luật Quốc Tế  được Luận Văn Tốt chia sẻ dưới đây giúp cho các bạn ngành luật có thêm tài liệu tham khảo khi các bạn làm bài tiểu luận về Điều Ước Quốc Tế Trong Luật Quốc Tế. Bài viết được chúng tôi soạn thảo từ các nguồn thông tin uy tín và những bài tiểu luận đạt điểm cao của nhiều bạn sinh viên ưu tú ở những khóa trước. Bài viết dưới đây sẽ giúp cho các bạn tiết kiệm được nhiều thời gian ⏰⏰⏰tìm kiếm tài liệu tham khảo, mong rằng đây sẽ tài liệu hữu ích để các bạn tìm ra phương hướng làm bài tốt nhất cho mình.???

Ngoài ra nếu nội dung dưới đây vẫn chưa đủ và nếu các bạn cần thêm tài liệu tham khảo, đề tài và nhiều nội dung khác thì các bạn hãy đến với Luận Văn Tốt qua Zalo/tele : 0934573149 để được hỗ trợ và tư vấn viết bài tiểu luận đạt điểm cao bạn nhé!!!!!

1. Khái Quát Chung Về Điều Ước Quốc Tế Và Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam.

1.1. Khái niệm và đặc điểm của điều ước quốc tế.

1.1.1. Khái niệm.

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 1 Công ước viên năm 1969 về Luật điều ước quốc tế “Điều ước quốc tế là một thỏa thuận quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các quốc gia và được luật quốc tế điều chỉnh, không phụ thuộc việc thỏa thuận đó được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất hoặc hai hay nhiều văn kiện có quan hệ với nhau, cũng như không phụ thuộc vào tên gọi của các văn kiện đó”.

Là thành viên của Công ước viên năm 1969 về luật điều ước quốc tế khái niệm điều ước quốc tế trong pháp luật Việt Nam cũng tương đồng với khái niệm điều ước quốc tế trong luật quốc tế: “ Điều ước quốc tế là thỏa thuận bằng văn bản được ký kết nhân danh Nhà nước hoặc Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với bên ký kết nước ngoài, làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo pháp luật quốc tế, không phụ thuộc vào tên gọi là hiệp ước, công ước, hiệp định, định ước, thỏa thuận, nghị định thư, bản ghi nhớ, công hàm trao đổi hoặc văn kiện có tên gọi khác.” (khoản 1 Điều 2 Luật điều ước quốc tế năm 2016).

Theo Luật Điều ước quốc tế 2016, điều ước quốc tế phải có quy định “làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo pháp luật quốc tế.” “Nếu văn bản thỏa thuận giữa Nhà nước hoặc Chính phủ Việt Nam và bên ký kết nước ngoài không có các quy định làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của Việt Nam thì văn bản thỏa thuận đó sẽ không được xem là điều ước quốc tế theo pháp luật Việt Nam. Ví dụ, các thỏa thuận có tính chất như bản ghi nhớ không phải là điều ước quốc té của Việt Nam cho dù đáp ứng các điều kiện khác”.

“Để một điều ước quốc tế trở thành nguồn pháp luật Việt Nam về hợp đồng, điều ước quốc tế đó phải có hiệu lực ràng buộc đối với Việt Nam thông qua việc được ký kết nhân danh Nhà nước hoặc Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Luật Điều ước quốc tế 2016 quy định một quy trình để người có thẩm quyền hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện đàm phán, ký, phê chuẩn, phê duyệt, gia nhập điều ước quốc tế hoặc trao đổi văn kiện tạo thành điều ước quốc tế. Trong một số trường hợp, điều ước quốc tế cần được Quốc hội thông qua nếu có quy định trái với quy định của luật hoặc nghị quyết của Quốc hội.Chủ thể của điều ước quốc tế phải là các chủ thể của Luật quốc tế, bao gồm: Quốc gia, tổ chức quốc tế và các chủ thể khác của Luật quốc tế”.

“Điều ước quốc tế tồn tại chủ yếu dưới hình thức văn bản. Trước đây, trong quan hệ quốc tế có sự xuất hiện của một số điều ước quân tử (bất thành văn), tuy nhiên các điều ước loại này hiện nay hầu như không còn tồn tại trong quan hệ giữa các chủ thể của luật quốc tế. Tên gọi của điều ước quốc tế hoàn toàn phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các bên. Trong thực tiễn quan hệ quốc tế, phụ thuộc vào phạm vi và nội dung của điều ước, mà điều ước quốc tế có thể có một số tên gọi khác nhau (hình thức) như: Hiệp ước, công ước, định ước, nghị định thư, hiệp định…”

1.1.2  Đặc điểm.

Từ khái niệm trên về điều ước quốc tế, ta có thể đưa ra một số đặc điểm của điều ước quốc tế như sau:

Thứ nhất, về chủ thể của điều ước quốc tế: Chủ thể của điều ước quốc tế là chủ thể của luật quốc tế, chính các chủ thể của luật quốc tế (cơ bản là các quốc gia) là chủ thể đã cùng nhau thỏa thuận và xây dựng nên các điều ước quốc tế”.

Thứ hai, về hình thức của điều ước quốc tế: “Hình thức của điều ước quốc tế được tồn tại dưới hình thức văn bản, tùy thuộc vào nội dung điều ước điều chỉnh, tên gọi của điều ước quốc tế rất đa dạng, tùy thuộc vào sự thỏa thuận của các bên tham gia”.

Thứ ba, về nội dung của điều ước quốc tế: “Nội dung của điều ước quốc tế là các điều khoản quy định những quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên, phản ánh sự thỏa thuận của các bên trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, thiện chí”.

Tiểu Luận Phương Thức Thực Hiện Điều Ước Quốc Tế Trong Luật Quốc Tế
Tiểu Luận Phương Thức Thực Hiện Điều Ước Quốc Tế Trong Luật Quốc Tế

XEM THÊM : Tiểu Luận Tranh Chấp Hợp Đồng Mua Bán Hàng Hóa Có Yếu Tố Nước Ngoài

1.2. Khái niệm và đặc điểm của hệ thống pháp luật Việt Nam.

1.2.1. Khái niệm.

Hệ thống nói chung được hiểu là một chỉnh thể bao gồm những ý tưởng, vấn đề hoặc bộ phận có liên hệ mật thiết với nhau, được sắp xếp theo một trình tự (trật tự) khách quan, logic và khoa học. Khi nói đến một hệ thống là phải đề cập cả bề rộng và chiều sâu của toàn bộ các vấn đề, các bộ phận hợp thành cũng như mối quan hệ giữa chúng trong một chỉnh thể. Nói cụ thể hơn, khi xem xét một hệ thống đó đồng thời cũng phải xét đến hình thức biểu hiện bên ngoài của nó, coi đó là hai mặt của một vấn đề thống nhất, dù có những khác biệt nhất định nhưng không thể tách rời nhau – “Quan điểm truyền thống của nhiều nhà luật học cho rằng hệ thống pháp luật được hiểu là cấu trúc bên trong của pháp luật, hệ thống pháp luật được hình thành và phát triển phù hợp với cơ cấu quan hệ xã hội. Cần phân biệt khái niệm hệ hợp với khái niệm hệ thống pháp luật thực định vì hệ thống pháp luật thực định (còn gọi là hệ thống văn bản pháp luật) là biểu hiện bên ngoài cụ thể của pháp luật; hệ thống pháp luật thực định được hình thành trong quá trình ban hành các bộ luật, sắp xếp, tập hợp hóa các đạo luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác…về nội dung của hai khái niệm này được giới hạn như sau”: “- Một loại quan điểm khác lại cho rằng chỉ có một khái niệm hệ thống pháp luật, không thể phân biệt rõ nét được hai khái niệm hệ thống pháp luật và hệ thống pháp luật thực định. Theo quan điểm này, hệ thống pháp luật có nội dung rất rộng, bao gồm hệ thống quy phạm pháp luật hiện hành và những nguồn khác nữa của pháp luật tồn tại trong thực tế mà dựa trên cơ sở đó tính hiện thực của pháp luật được bảo đảm và pháp luật phát huy hiệu lực. Các nguồn đó là các trào lưu (khuynh hướng) pháp lý, kỹ thuật pháp lý, các nguyên tắc chính trị, triết học cũng như các phương pháp hoạt động của nhà luật học – thực nghiệm…” “Cả hai quan điểm trên đều có những điểm chưa hợp lý bởi vì: quan điểm thứ nhất có hai điểm hạn chế là không xác định được thành tố nhỏ nhất (tế bào) của hệ thống pháp luật và hệ thống pháp luật thực định, đồng thời chưa giải thích được mối quan hệ mật thiết giữa nội dung và hình thức của hệ thống pháp luật. Còn quan điểm thứ hai lại dung hợp vào hệ thống pháp luật cả những yếu tố bên ngoài mang tính kỹ thuật, rời rạc”.

Cần dựa trên cơ sở của lý thuyết hệ thống để xem xét khái niệm hệ thống pháp luật. Hệ thống pháp luật cần được hiểu là một chỉnh thể bao gồm cả cấu trúc bên trong và hình thức biểu hiện bên ngoài của pháp luật. Theo cách hiểu này, hệ thống pháp luật được định nghĩa là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau, được phân định thành các chế định pháp luật, các ngành luật và được thể hiện thành các chế định pháp luật, các ngành luật và được thể hiện trong các văn bản do nhà nước ban hành theo những trình tự, thủ tục và hình thức nhất định

“Hệ thống pháp luật Việt Nam là tổng thể các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc, định hướng và mục đích của pháp luật có mối liên hệ mật thiết và thống nhất với nhau, được phân định thành các ngành luật, các chế định pháp luật và được thể hiện trong các văn bản do cơ quan nhà nước Việt Nam có thẩm quyền ban hành theo những hình thức, thủ tục nhất định để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trên lãnh thổ Việt Nam”[1]

1.2.2. Đặc điểm.

Từ khái niệm nêu trên, ta có thể rút ra một số đặc điểm của hệ thống pháp luật Việt Nam như sau:

Thứ nhất, hệ thống pháp luật Việt Nam là tổng thể cá quy phạm pháp luật, các nguyên tắc, định hướng của pháp luật có sự thống nhất nội tại cao”.

Thứ hai, hệ thống pháp luật Việt Nam được cấu thành bởi các quy phạm, chế định và ngành luật.và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành”.

Thứ ba, hệ thống pháp luật Việt Nam có vai trò quan trọng là điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trên lãnh thổ Việt Nam”.

2. Vị Trí Của Điều Ước Quốc Tế Trong Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam.

2.1. Vị Trí Pháp Lý Của Điều Ước Quốc Tế Trong Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam.

Trước khi Luật Điều ước quốc tế năm 2016 chưa được ban hành và có hiệu lực thì pháp luật nước ta chưa quy định rõ ràng về việc điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập có vị trí như thế nào trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật trong nước. Cụ thể Khoản 1 Điều 6 Luật ký kết và gia nhập điều ước quốc tế năm 2005 quy định: “Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế”. Quy định này không rõ ràng trong việc không xác định Hiến pháp là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất nên có rất nhiều ý kiến cho rằng điều ước quốc tế có giá trị pháp lý cao hơn cả Hiến pháp”. Vì vậy Luật Điều ước quốc tế năm 2016 đã kịp thời khắc phục hạn chế này thông qua việc quy định: “Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thàn viên có quy định khác về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó, trừ Hiến pháp.”(khoản 1 Điều 6). Từ quy định này ta có thể hiều rằng các quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên sẽ ưu tiên được thực thi trong trường hợp nó mâu thuẫn với pháp luật Việt Nam hoặc trong trường hợp pháp luật Việt Nam quy định chưa đầy đủ về cùng một vấn đề”. Và việc bổ sung thêm cụm từ “trừ Hiến Pháp” có ý nghĩa rất quan trọng trong việc khẳng định Hiến pháp có vị trí tối cao, Điều ước quốc tế có vị trí sau Hiến pháp nhưng trên các văn bản luật, pháp lệnh.

Ngoài ra trong từng lĩnh vực cụ thể thì pháp luật nước ta cũng có những có quy định cụ thể về việc áp dụng pháp luật quốc gia và điều ước quốc tế. Chẳng hạn như trong lĩnh vực dân sự, Bộ luật dân sự 2015 của nước ta có quy định: “ trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Bộ luật này và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của  điều ước quốc tế” (Khoản 4 Điều 4)

Liên quan đến việc ký kết và gia nhập điều ước quốc tế, Năm 2001 Việt Nam cũng đã gia nhập công ước Viên năm 1969 về Luật điều ước quốc tế. Một trong những nguyên tắc được quy định trong Công ước này là nguyên tắc Pacta sunt servand với nội dung “mọi điều ước đã có hiệu lực đều ràng buộc các bên tha gia điều ước và phải được các bên thi hành với thiện ý”. Như vậy, ta có thể nói rằng những quy định về giá trị ưu tiên của Điều ước quốc tế so với các văn bản quy phạm pháp luật trong nước nêu trên chính là sự cụ thể hóa của nguyên tắc này.

Từ những quy định trên ta có thể khẳng định một điều rằng điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên sẽ có vị trí pháp lý cao hơn so với pháp luật trong nước, điều ước quốc tế chỉ có vị trí pháp lý thấp hơn Hiến pháp.

2.3. Áp Dụng Điều Ước Quốc Tế.

Khoản 2 Điều 6 Luật điều ước quốc tế năm 2016 quy định: “Căn cứ vào yêu cầu, nội dung, tính chất của điều ước quốc tế, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ khi chấp nhận sự ràng buộc của điều ước quốc tế đồng thời quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp quy định của điều ước quốc tế đã đủ rõ, đủ chi tiết để thực hiện; quyết định hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế đó”. Từ quy định này ta có thể thấy, Việt Nam chấp nhận cả hai phương thực thực hiện điều ước quốc tế đó là áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế; chuyển hóa điều ước quốc tế vào văn bản pháp luật trong nước để áp dụng”.

“Về phương thức áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế, ta có thể hiểu là khi một điều ước quốc tế có hiệu lực thì mọi tổ chức, cá nhân đều có nghĩa vụ thi hành. Công dân hoàn toàn có quyền được quyền viện dẫn điều ước quốc tế đó trước tòa án hay các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Còn về phương thức chuyển hóa điều ước quốc tế vào văn bản pháp luật trong nước hay còn gọi là việc áp dụng gián tiếp được hiểu là việc Việt Nam sẽ ban hành một đạo luật để chuyển hóa các quy định của điều ước quốc tế vào trong nội luật, thực tế đây thường là trường hợp những điều ước quốc tế không quy định rõ ràng và cụ thể và đầy đủ để có thể áp dụng trực tiếp hoặc trường hợp điều ước đó lại có nhiều điều khoản trái hoặc chưa quy định trong luật quốc gia” [2]

Một ví dụ cho quy định áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế đó là ngày 29 tháng 11 năm 2006 Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 71/2006/QH11 về việc phê chuẩn nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập tổ chức thương mại thế giới (WTO) của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó quyết định “Áp dụng trực tiếp các cam kết của việt Nam được ghi tại Phụ lục đính kèm Nghị quyết này và các cam kết khác của Việt Nam với tổ chức thương mại thế giới được quy định đủ rõ, chi tiết trong Nghị định thư, các phụ lục đính kèm và báo cáo của ban công tác về việc Việt Nam gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới. Trong trường hợp quy định của pháp luật Việt Nam không phù hợp với quy định của Hiệp định thành lập tổ chức thương mại thế giới, Nghị định thư và các tài liệu đính kèm thì áp dụng quy định của Hiệp định thành lập tổ chức thương mại thế giới, Nghị định thư và các tài liệu đính kèm”[3].

“Áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế là hình thức nội luật hoá toàn bộ hoặc một phần nội dung của điều ước quốc tế thông qua một quyết định chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tức là các quốc gia chỉ bằng một văn bản pháp luật thừa nhận việc thi hành tất cả các điều ước quốc tế mà mình tham gia sẽ được áp dụng trên phạm vi lãnh thổ mà không cần sửa đổi hay ban hành các văn bản pháp luật quốc gia chuyên biệt. Văn bản này thường có giá trị pháp lý tương đương với một đạo luật kí kết và thực thi các điều ước quốc tế nói chung của một quốc gia hoặc có thể được ghi nhận trong các văn bản có giá trị pháp lý cao như Hiến pháp, Bộ luật, Luật”…

“Về bản chất, khi áp dụng trực tiếp, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên đã được coi như là một nguồn luật bên cạnh pháp luật quốc gia và được thực hiện như pháp luật quốc gia. Có nghĩa là khi điều ước quốc tế đã được ký kết và có hiệu lực thì mọi cá nhân, tổ chức là đối tượng điều chỉnh của điều ước đó đều có nghĩa vụ thi hành và công dân hoàn toàn có thể viện dẫn các quy định của điều ước quốc tế đó trước Tòa án để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình. Nhà nước không nhất thiết phải thực hiện các thủ tục chuyển hoá điều ước quốc tế bằng việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật truyền thống theo quy định của Luật, vừa phức tạp, kéo dài và tốn kém”.

“Chẳng hạn như trong Nghị quyết của Quốc hội phê chuẩn Nghị định thư gia nhập WTO đã liệt kê các quy định liên quan đến nội dung cam kết được áp dụng trực tiếp của Việt Nam là: Luật Doanh nghiệp, Luật Luật sư, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Điện ảnh, hoặc Hiệp định về thuế…Đối với phương thức áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia: như đã đề cập ở trên, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ có thẩm quyền quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế đó đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp quy định của điều ước quốc tế đã đủ rõ, chi tiết để thực hiện. Do đó, trong trường hợp quy định của điều ước quốc tế đầy đủ, rõ ràng và chi tiết thì cơ quan có thẩm quyền chỉ cần ban hành văn bản pháp luật thừa nhận toàn bộ hoặc một phần nội dung của một điều ước quốc tế và hệ quả của nó là nội dung của điều ước quốc tế trở thành bộ phận của hệ thống pháp luật quốc gia, được thực hiện, dẫn chiếu áp dụng như các quy định của pháp luật quốc gia”. “Có thể thấy rằng, trong điều kiện khuôn khổ pháp lý còn chưa hoàn thiện và khả năng ban hành luật đầy đủ, chi tiết còn hạn chế như hiện nay thì việc tính toán để áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế là hợp lý. Trên thực tế, có nhiều điều ước quốc tế như Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp năm 1967, Công ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học nghệ thuật năm 1971 mà nước ta gia nhập là những điều ước quốc tế chuyên ngành, nên việc việc quy định áp dụng trực tiếp các điều này để bảo đảm sự hài hoà và thống nhất giữa pháp luật quốc gia và điều ước quốc tế là cần thiết”.

Trong vấn đề chuyển hóa điều ước quốc tế thường được thực hiện theo các phương thức phổ biến sau:

Thứ nhất: sửa đổi, bổ sung, ban hành pháp luật nhằm đảm bảo thực hiện điều ước quốc tế. Theo quy định tại Điều 79 Luật điều ước quốc tế năm 2016  thì cơ quan đề xuất ký kết điều ước quốc tế có trách nhiệm kiến nghị hoặc ban hành, sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế”.[4] “Việc quy định trách nhiệm của cơ quan đề xuất có ý nghĩa trong việc tạo ra một cơ sở pháp lý kịp thời để thực hiện đúng các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết”.

Thứ hai: Tiến hành chuyển hóa quy phạm của điều ước quốc tế vào pháp luật trong nước.Hoạt động này được hiểu là đưa nội dung các quy phạm điều ước quốc tế vào nội dung của quy phạm pháp luật trong nước thông qua việc xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong nước để có nội dung pháp lý đúng với nội dung của các quy định của điều ước đã được ký kết hoặc gia nhập. Mục đích cơ bản của vấn đề chuyển hóa này là nhằm đảm bảo thuận lợi cho việc thực hiện các điều ước quốc tế. Tuy nhiên, vấn đề chuyển hóa điều ước quốc tế vào pháp luật quốc gia theo phương thức này không phải là một vấn đề đơn giản, vấn đề này còn phải còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của nước ta. Nhưng, việc chuyển hóa điều ước quốc tế vào nội luật là một vấn đề quan trọng và có ý nghĩa lớn lao trong việc tạo ra sự hài hòa giữa nội luật và điều ước quốc tế. Làm tốt hoạt động này sẽ cho thấy tinh thần trách nhiệm, thái độ hợp tác của chúng ta trong quá trình hội nhập quốc tế và khu vực”.

2.4. Thực Hiện Các Điều Ước Quốc Tế .

Theo báo cáo tổng kết 9 năm thi hành Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 giai đoạn 2006 – 2014 của Bộ Ngoại giao Việt Nam từ ngày 01/01/2006 đến ngày 31/10/2014 Việt Nam đã ký 1023 điều ước quốc tế hai bên; trong đó có 254 điều ước được ký kết nhân danh Nhà nước, 769 điều ước ký kết nhân danh Chính phủ; có 827 điều ước có hiệu lực, 47 điều ước chưa có hiệu lực do các bên đối tác chưa hoàn thành thủ tục, 121 điều ước chưa có hiệu lực do Việt Nam chưa phê chuẩn, phê duyệt, 28 điều ước hết hiệu lực.

“Nhìn vào thực tế áp dụng các điều ước quốc tế tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay có thể thấy Việt Nam công nhận hiệu lực thi hành trực tiếp cho nhiều  điều ước quốc tế (những điều ước có nội dung đủ rõ, chi tiết) mà không thông qua quá trình chuyển hoá, đặc biệt là các điều ước quốc tế là đòn bẩy cho sự phát triển  kinh tế và các điều ước là bước đệm cho sự hội nhập nhanh và mạnh như các hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư, các hiệp định thương mại song phương…” “Một ví dụ điển hình là việc Quốc hội ban hành Nghị quyết số  71/2006/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2006 về việc Phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó quyết định : “2. Áp dụng trực tiếp các cam kết của Việt Nam được ghi tại Phụ lục đính kèm Nghị quyết này và các cam kết khác của Việt Nam với Tổ chức thương mại thế giới được quy định đủ rõ, chi tiết trong Nghị định thư, các Phụ lục đính kèm và Báo cáo của Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới. Trong trường hợp quy định của pháp luật Việt Nam không phù hợp với quy định của Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới, Nghị định thư và các tài liệu đính kèm thì áp dụng quy định của Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới, Nghị định thư và các tài liệu đính kèm”.

“Việc Quốc hội thông qua Nghị quyết số 71/2006/QH11 đã đánh dấu một bước quan trọng trong sự phát triển pháp luật về điều ước quốc tế của Việt Nam  trong quá trình hội nhập. Lần đầu tiên một Nghị quyết của Quốc hội khẳng định việc áp dụng trực tiếp các cam kết của Việt Nam trong Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới mà không cần phải thực hiện phương thức chuyển hoá”.

Chẳng hạn như nội dung trong cam kết WTO “(tức đoạn 502 và 503 của Báo  cáo gia nhập WTO) về vấn đề tỷ lệ đại diện tham dự cuộc họp, các thẩm quyền  của Đại hội đồng cổ đông, tỷ lệ thông qua quyết định của cơ quan này trong các doanh nghiệp cổ phần và các doanh nghiệp được phép tự do quy định về loại quyết định thuộc thẩm quyền quyết định của Đại hội đồng cổ đông, số đại biểu cần thiết trong quy trình bỏ phiếu và tỷ lệ đa số phiếu chính xác đề ra quyết định với điều kiện các doanh nghiệp này phải là doanh nghiệp liên doanh sẽ được áp dụng trực tiếp. Hoặc Đoạn 397 trong Báo cáo gia nhập WTO về thù lao, nhuận bút. Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình đã công bố để thực hiện chương trình phát sóng không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan sẽ được áp dụng trực tiếp….” “Nghị quyết cũng ghi rõ trong trường hợp các quy định của pháp luật Việt Nam không phù hợp với quy định của WTO thì thực hiện các quy định của WTO. Với quy định áp dụng trực tiếp các cam kết quốc tế với WTO, đã chuyển các cam kết quốc tế của Việt Nam thành một “nguồn luật” bên cạnh các quy định của pháp luật quốc gia có giá trị ràng buộc thi hành đối với các cơ quan thực thi pháp luật, kể cả Tòa án và Viện kiểm sát, các doanh nghiệp từng cá nhân”.

“Đề cập đến vấn đề thực hiện điều ước quốc tế là nói đến việc đưa ra những biện pháp để đảm bảo thực hiện điều ước quốc tế cũng như việc thực hiện các nghĩa vụ phát sinh từ các điều ước đó trên cơ sơ tôn trọng nguyên tắc Pacta sunt servanda. Để làm được điều này, Luật điều ước quốc tế năm 2016 đã có một Chương quy định về việc tổ chức thực hiện điều ước quốc tế, cụ thể là Chương VIII”. Có thể nêu lên một số nội dung cơ bản như sau:

Thứ nhất, về kế hoạch thực hiện điều ước quốc tế: “Theo khoản 4 Điều 74 Luật điều ước quốc tế 2016, kế hoạch thực hiện điều ước quốc tế gồm những nội dung cơ bản như lộ trình thực hiện điều ước quốc tế; dự kiến phân công trách nhiệm của của các cơ quan nhà nước trong việc tổ chức thực hiện điều ước quốc tế; dự kiến nội dung sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế; các biện pháp tổ chức, quản lý, tài chính và các biện pháp cần thiết khác để thực hiện điều ước quốc tế; tuyên truyền phổ biến điều ước quốc tế”.[5]

“Trong việc thực hiện điều ước quốc tế, xuất phát từ tình hình, hoàn cảnh cụ thể của đất nước trong từng giai đoạn củ thể, căn cứ vào tình hình phát triển của đất nước thì đòi hỏi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xây dựng được những lộ trình cụ thể để trong việc thực hiện điều ước quốc tế. Việc dự kiến phân công trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc tổ chức thực hiện điều ước quốc tế có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó sẽ giúp giải quyết những vấn đề phát sinh từ điều ước quốc tế một cách nhanh chóng, tránh được sự chồng chéo trong thẩm quyền giải quyết, qua đó điều ước quốc tế sẽ được thực thi một cách hiệu quả. Như trên đã phân tích việc sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế có ý nghĩa rất quan trọng nhưng đó không phải là vấn đề đơn giản, do đó cần phải có những kế hoạch cụ thể, chi tiết về vấn đề này, tránh việc sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy quy phạm pháp luật không phù hợp. Ngoài ra, trong nội dung kế hoạch tổ chức thực hiện điều ước quốc tế chúng ta cần phải hoàn thiện cơ chế quản lý việc thực hiện điều ước, quản lý nguồn tài chính, kể cả những đóng góp, tài trợ quốc tế cho việc thực hiện điều ước quốc tế”.

Thứ hai, về việc xác định những cơ quan có trách nhiệm tổ chức thực hiện điều ước quốc tế. Luật điều ước quốc tế năm 2016 đã quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan trong việc thực hiện điều ước quốc tế như trách nhiệm của Thủ tướng Chính phủ, Bộ ngoại giao, Bộ tư pháp, cơ quan đề xuất ký kết điều ước quốc tế, cơ quan tổ chức cá nhân khác. Trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình, các Bộ ngành và các cấp chính quyền có trách nhiệm đề ra kế hoạch cụ thể và biện pháp bảo đảm khả thi các cam kết và Việt Nam đưa ra trong điều ước quốc tế. Việc thực hiện từng loại điều ước lại phụ thuộc vào chức năng, nhiệm vụ của mỗi Bộ, ngành. Tuy nhiên, hoạt động của các cơ quan trong việc thực hiện điều ước không độc lập mà phải nằm trong mối liên hệ mật thiết với nhau. Trong trường hợp phát sinh khó khăn bất cập, Các Bộ, Ngành và cơ quan trung ương sẽ phải phối hợp với nhau để đưa ra những biện pháp khắc phục nhằm đảm bảo cho việc thực hiện điều ước quốc tế được thống nhất, nhanh chóng và hiệu quả”. “Một là theo nguyên tắc tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế (nguyên tắc Pacta Sunt Servanda). Tiền thân của nó là nguyên tắc Tuân thủ ,điều ước quốc tế xuất hiện từ thời La mã cổ đại và tồn tại hàng ngàn năm dưới dạng tập quán pháp lý quốc tế trước khi được ghi nhận chính thức trong điều ước quốc tế. Đây là nguyên tắc được ghi nhận trong hầu hết các văn bản pháp luật quan trọng của luật quốc tế: Khoản 2 điều 2 của Hiến chương Liên hợp quốc quy định “tất cả các thành viên Liên hợp quốc thiện chí thực hiện các nghĩa vụ do Hiến chương đặt ra”; Công ước Viên năm 1969 quy định “mỗi điều ước quốc tế hiện hành đều ràng buộc các bên tham gia và đều được các bên thực hiện một cách thiện chí”; Tuyên bố 1970 về các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế cũng ghi nhận nguyên tắc này.

Hai là, nguyên tắc thi hành hiệu lực ràng buộc của điều ước quốc tế trên phạm vi lãnh thổ quốc gia thành viên. Điều 29 Công ước Viên về Luật Điều ước quốc tế ghi “Một điều ước ràng buộc mỗi quốc gia thành viên trong phạm vi toàn bộ lãnh thổ của quốc gia thành viên đó” trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Các quy định về các nguyên tắc áp dụng điều ước quốc tế đảm bảo các quốc gia thành viên có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật quốc tế vừa tạo điều kiện cho các quốc gia sử dụng điều ước quốc tế để điều chỉnh các quan hệ nảy sinh trong đời sống quốc tế.

Để có đầy đủ nội dung về Tiểu Luận Phương Thức Thực Hiện Điều Ước Quốc Tế Trong Luật Quốc Tế thì mời các bạn xem hết phần còn lại bạn nhé!!!!

3. Thực Trạng Thực Thi Điều Ước Quốc Tế Ở Việt Nam.

3.1. Những thành công.

  • “Nước ta đã và đang thực hiện tốt việc chuyển hóa điều ước điều ước quốc tế vào pháp luật quốc gia, làm cho việc thực hiện điều ước quốc tế ngày càng hiệu quả hơn”.
  • “Nước ta đã tích cực tổ chức và tham gia vào các dự án tăng cường hiệu quả thực thi điều ước quốc tế”.
  • “Trong quá trình thực thi điều ước quốc tế, Việt Nam đã thường xuyên báo cáo với các tổ chức quốc tế về tình hình thực hiện điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, qua đó kiến nghị những khó khăn để cùng nhau khắc phục, giải quyết”.
  • “Việt Nam luôn khẳng định vai trò quan trọng của điều ước quốc tế, điều này thể hiện ở nhiều hành động, có thể kể đến như không ngừng tuyên truyền và phổ biến các điều ước quốc tế và vai trò cũng như nghĩa vụ phải nghiêm chỉnh thực thi các điều ước quốc tế đến các cá nhân, tổ chức đặc biệt là những chủ thể tham gia trực tiếp vào việc thực thi các điều ước quốc tế”.
  • “Trong việc thực hiện điều ước quốc tế, để khuyến khích các cá nhân, tổ chức có trách nhiệm cao cũng như có đóng góp hữu ích trong việc thực hiện quốc tế thì Nhà nước ta luôn có những sự quan tâm kịp thời thông qua nhiều hình thức, ví dụ như khen thưởng. Đồng thời, đối với những hành vi không nghiêm chỉnh thực hiện điều ước quốc tế, hoặc có hành vi chống lại điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên thì Nhà nước ta cũng có những biện pháp thích đáng để xử lý những hành vi đó”.

3.2. Những tồn tại, hạn chế.

  • “Hiện nay, hệ thống pháp luật Việt Nam còn chưa đủ căn cứ để các cá nhân, tổ chức có thể dựa vào đó để áp dụng cho việc thực thi các điều ước quốc tế. Điều ước quốc tế muốn được thực thi hiệu quả thì cần phải có một cơ chế đảm bảo thực thi hiệu quả. Tuy nhiên cơ chế đảm bảo thực thi điều ước quốc tế ở nước ta vẫn chưa hiệu quả. Việc ký kết và thực hiện điều ước quốc tế đòi hỏi đội ngũ cán bộ thực hiện chức năng này phải có trình độ cao. Tuy nhiên hiện nay đội ngũ cán bộ nước ta nhìn chung vẫn còn hạn chế về trình độ chuyên môn và việc nhận thức những quy định của điều ước quốc tế còn hạn chế. Việc thực hiện điều ước quốc tế cần phải có một nguồn kinh phí nhất định, tuy nhiên hiện nay nguồn kinh phí cho việc thực hiện một số điều ước còn bị thiếu hụt, khiến cho việc thực hiện điều ước quốc tế còn gặp nhiều khó khăn”

4. Một Số Kiến Nghị Về Giải Pháp Hoàn Thiện.

Từ việc đưa ra một số hạn chế trong việc thực thi điều ước quốc tế, tôi xin đưa ra một số giải pháp để nâng cao hiệu quả trong việc thực thi điều ước quốc tế như sau:

Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp lý để các cá nhân tổ chức có đủ căn cứ để áp dụng cho việc thực thi các điều ước quốc tế. Xây dựng và hoàn thiện những cơ chế đảm bảo thực thi điều ước quốc tế, có những chế tài thích đáng đối với những hành vi không thực thi nghiêm chỉnh điều ước quốc tế”.

Thứ hai, không ngừng nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ trong hoạt động ký kết và thực hiện điều ước quốc tế.

Thứ tư, cần đảm bảo tốt nguồn kinh phí cần thiết để tiến hành những hoạt động liên quan đến việc thực thi điều ước quốc tế”.

Thứ năm, “Việt Nam cho phép việc áp dụng ĐƯQT được linh hoạt theo cả hai cách, gián tiếp và trực tiếp. Với trình độ và kiến thức về luật pháp quốc tế của các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan hiện nay còn hạn chế thì việc mở rộng áp dụng trực tiếp ĐƯQT sẽ có thể gây nhiều khó khăn, thậm chí dẫn đến giải thích và áp dụng sai ĐƯQT. Lấy ví dụ như ngôn ngữ sử dụng trong ĐƯQT và cách thức giải thích ĐƯQT có điểm đặc trưng riêng biệt so với quy định pháp luật quốc gia. Do đó việc giới hạn áp dụng trực tiếp ĐƯQT là cần thiết. Hơn nữa, không phải tất cả các ĐƯQT đều có thể áp dụng trực tiếp, nhiều ĐƯQT chỉ áp dụng trong quan hệ giữa các quốc gia. Các ĐƯQT có thể áp dụng trực tiếp chủ yếu liên quan đến quyền con người. Dự thảo Luật hiện nay đã ghi nhận điểm này khi quy định chỉ áp dụng trực tiếp đối với ĐƯQT làm phát sinh, thay đổi quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thứ ba, các khó khăn của việc áp dụng trực tiếp ĐƯQT lại là ưu điểm của việc áp dụng gián tiếp ĐƯQT. Việc nội luật hoá các ĐƯQT vào trong VBQPPL sẽ giúp cho các cơ quan, tổ chức và cá nhân dễ tiếp cận, hiểu đúng hơn các quy định của ĐƯQT. Thứ tư, mặc dù có một số quốc gia theo thuyết nhất nguyên luận, cho phép áp dụng trực tiếp ĐƯQT như pháp luật quốc gia nhưng hầu hết đều chỉ giới hạn trong một số loại ĐƯQT (ví dụ như Pháp chỉ cho phép áp dụng trực tiếp đối với các ĐƯQT liên quan đến quyền và nghĩa vụ của cá nhân). Do đó, việc duy trì hai trường hợp áp dụng trực tiếp như Việt Nam hiện nay là phù hợp với thực tiễn quốc tế”.

Để bài tiểu luận của các bạn hiệu quả hơn Luận Văn tốt chia sẻ đến các bạn Cách Làm Tiểu Luận Tốt Nghiệp Đại Học Tây Đô Điểm Cao để các bạn cùng tham khảo

Tuy nhiên, “cũng phải nhận thấy rằng, ở một mức độ nhất định, việc cho phép áp dụng trực tiếp ĐƯQT (cụ thể hơn là cho phép viện dẫn và yêu cầu phải áp dụng ĐƯQT trước toà án và cơ quan nhà nước khác) sẽ tránh được tình trạng nội luật hoá không đầy đủ quy định ĐƯQT cũng như giảm tải khối lượng công việc liên quan đến nội luật hoá quy định ĐƯQT của Quốc hội và các cơ quan nhà nước khác. Thực tiễn cho thấy việc ban hành, sử đổi, bãi bỏ VBQPPL để thực hiện ĐƯQT còn chậm trễ, ảnh hưởng đến việc thực hiện cam kết quốc tế của Việt Nam”.

“Về việc áp dụng trực tiếp ĐƯQT, tác giả đồng ý với quy định về chủ thể quyết định và loại ĐƯQT được áp dụng trực tiếp. Dự thảo cũng đã bổ sung một cách hợp lý”. Tuy nhiên, để hoàn thiện hơn luật mới cần quy định thêm hai điểm:

Thứ nhất, “thời điểm quyết định cho phép áp dụng trực tiếp: Hiện nay việc cho phép áp dụng trực tiếp chỉ được thực hiện tại thời điểm thể hiện sự đồng ý chịu ràng buộc. Dự thảo cần dự kiến trước trường hợp nếu sau thời điểm thể hiện sự đồng ý chịu ràng buộc mà các cơ quan có liên quan nhận thấy quy định ĐƯQT chưa được nội luật hoá đầy đủ mà khả năng áp dụng trực tiếp là khả thi thì sẽ có quyền đề xuất áp dụng trực tiếp ĐƯQT. Điều này làm cho việc thực hiện ĐƯQT được dễ dàng, linh hoạt, kịp thời hơn với sự thay đổi của thực tiễn”.

Thứ hai, “về cơ quan có quyền đề xuất áp dụng trực tiếp ĐƯQT: Có thể là cơ quan đề xuất (đối với ĐƯQT thuộc thẩm quyền quyết định ký kết của Chính phủ), Chính phủ (đối với ĐƯQT thuộc thẩm quyền quyết định ký kết của Chủ tịch nước, Quốc hội) và Chủ tịch nước (đối với ĐƯQT thuộc thẩm quyền quyết định ký kết của Quốc hội). Chủ tịch nước và Quốc hội cũng có thể giao cho Chính phủ hoặc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyền quyết định áp dụng trực tiếp ĐƯQT thuộc thẩm quyền quyết định ký kết của mình nhằm tạo sự thuận lợi, linh hoạt, nhanh chóng và giảm thiểu thủ tục. Một điều khoản mới cần được quy định để xác định cơ quan có thẩm quyền đề xuất áp dụng trực tiếp và trình tự thủ tục”.

Nhìn chung, các quy định hiện nay về mối quan hệ giữa ĐƯQT và pháp luật Việt Nam của Luật ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT năm 2005 về cơ bản đã hợp lý và đầy đủ. Nhưng vẫn còn có một số điểm cần thiết phải xem xét sửa đổi, bổ sung để tăng cường tính hiệu lực, hiệu quả của việc áp dụng ĐƯQT ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.

Về hiệu lực pháp lý của ĐƯQT, Luật mới cần phải xác định rõ hơn nguyên tắc ĐƯQT có hiệu lực pháp lý cao hơn các quy định của pháp luật Việt Nam, trừ Hiến pháp. Kiến nghị này phù hợp với chủ trương hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước, không có cách nào thể hiện rõ ràng và mạnh mẽ hơn chủ trương này hơn việc công nhận hiệu lực pháp lý cao hơn của ĐƯQT. Đây cũng là một biện pháp đề nâng cao nhận thức của tất cả mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân về các cam kết quốc tế của Việt Nam, hình thành một quan điểm hội nhập trong tư duy.

“Bên cạnh việc xác định rõ ưu thế pháp lý của ĐƯQT thì cần giới hạn việc áp dụng ĐƯQT vào hai trường hợp cụ thể nhằm tránh việc lạm dụng ĐƯQT hay viện dẫn, áp dụng, giải thích sai như phân tích ở trên. Hơn nữa ngôn từ sử dụng cần nhấn mạnh tính bắt buộc các cơ quan, tổ chức, cá nhân phải áp dụng ĐƯQT trong các trường hợp được trù định. Quy định như thế phù hợp với Công ước Viên về Luật ĐƯQT năm 1969, cũng như thể hiện cam kết của Việt Nam và tạo ra sự tin cậy của các đối tác nước ngoài khi ký kết ĐƯQT với nước ta. Kiến nghị này có thể không khả thi và khó chấp nhận do quan điểm pháp lý truyền thống của Việt Nam. Tuy nhiên, nếu các nhà làm luật và ban soạn thảo có thể chấp nhận thì sẽ có biết tiến mới mang lại nhiều lợi ích cho Việt Nam trong tiến trình tích cực và chủ động hội nhập quốc tế”.

[1]https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%87_th%E1%BB%91ng_ph%C3%A1p_lu%E1%BA%ADt_Vi%E1%BB%87t_Nam

[2] http://www.nhandan.com.vn/phapluat/thoi-su-phap-luat/item/13792402-.html

[3] Xem Nghị quyết số 71/2006/QH11 về việc phê chuẩn nghị định thư gia nhập hiệp định thành lập tổ chức thương mại thế giới (WTO) của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

[4] Xem khoẳn 2 Điều 79 Luật điều ước quốc tế năm 2016.jj

[5] Xem khoản 4 Điều 74 Luật điều ước quốc tế năm 2016.

 ??Qua bài Tiểu Luận Phương Thức Thực Hiện Điều Ước Quốc Tế Trong Luật Quốc Tế trên đây sẽ cung cấp cho các bạn thêm kiến thức hữu ích khi làm bài. Tuy nhiên nếu các bạn cần thêm tài liệu tham khảo hoặc cần hỗ trợ hoàn thành tiểu luận Phương Thức Thực Hiện Điều Ước Quốc Tế Trong Luật Quốc Tế thì hãy gọi ngay Zalo/tele : 0934573149 hoặc liên hệ với dịch vụ viết tiểu luận của luanvantot.com bạn nhé!!!!!?? 

DOWNLOAD MIỄN PHÍ

5 1 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Liên hệ